Thứ sáu 13/06/2025 08:11
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ

Có thể nói, việc sử dụng những dấu hiệu chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm, hàng hóa tạo ra những giá trị vô hình cho các sản phẩm tự nhiên ở các vùng miền khác nhau trên thế giới. Khác với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có chức năng chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm có chất lượng đặc biệt so với sản phẩm cùng loại đến từ những vùng khác, những khu vực này thường là nơi có điều kiện thổ nhưỡng, tự nhiên hay yếu tố con người độc đáo.


Thời gian qua, Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập một số điều ước quốc tế, gần đây nhất là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), trong đó có các quy định nhấn mạnh về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với chỉ dẫn địa lý nói chung cũng như giải quyết vấn đề liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm. EVFTA được phê chuẩn buộc Việt Nam phải thay đổi một số nội dung pháp luật về sở hữu trí tuệ nhằm tương thích với EVFTA, trong đó EVFTA đặc biệt chú trọng đến các thỏa thuận về chỉ dẫn địa lý. Một trong những thỏa thuận này có quy định về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm. Bởi vậy, trong bài viết này, tác giả đưa ra một số phân tích và bình luận về pháp luật Việt Nam liên quan đến chỉ dẫn địa lý đồng âm.

1. Khái niệm và cơ sở cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm

Nếu hiểu theo nghĩa phổ thông, thuật ngữ đồng âm (homonym) được định nghĩa là một trong hai hoặc nhiều từ được đánh vần và phát âm giống nhau nhưng khác nhau về nghĩa[1]. Định nghĩa này giúp ta hiểu rằng, chỉ dẫn địa lý đồng âm là những chỉ dẫn địa lý được viết và phát âm giống nhau được dùng để chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của sản phẩm xuất phát từ các vùng lãnh thổ, các quốc gia khác nhau.

Trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) lần đầu tiên đề cập đến chỉ dẫn địa lý đồng âm[2] và việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm cho sản phẩm rượu vang nhưng không đưa ra khái niệm thế nào là chỉ dẫn địa lý đồng âm. Tuy nhiên, theo cách hiểu trong Hiệp định TRIPs, các chỉ dẫn địa lý đồng âm là các dấu hiệu để chỉ các vùng lãnh thổ có tên gọi giống nhau về nghĩa đen được sử dụng để chỉ nguồn gốc địa lý của các sản phẩm đến từ các quốc gia khác nhau.

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung các năm 2009 và 2019 (sau đây gọi là Luật Sở hữu trí tuệ) không quy định về khái niệm chỉ dẫn địa lý đồng âm, tuy nhiên, trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ[3] (Dự thảo Luật) có bổ sung khái niệm này trong khoản 22 Điều 4, cụ thể: Chỉ dẫn địa lý đồng âm được hiểu là các chỉ dẫn địa lý có cách phát âm hoặc cách viết trùng nhau. Việc pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đưa ra định nghĩa về chỉ dẫn địa lý đồng âm là hợp lý, bởi khi có một định nghĩa chính xác và đầy đủ về chỉ dẫn địa lý đồng âm sẽ là cơ sở quan trọng để xác định đối tượng được bảo hộ và các điều kiện cho phép các chỉ dẫn địa lý này đồng thời tồn tại.

Định nghĩa trong Dự thảo Luật đã chỉ ra các đặc điểm của chỉ dẫn địa lý đồng âm, đó là: (i) Chỉ dẫn địa lý đồng âm chỉ có thể là các dấu hiệu từ ngữ. Theo quy định hiện hành, dấu hiệu được công nhận là chỉ dẫn địa lý là các dấu hiệu bất kỳ, có thể là từ ngữ, hình ảnh hay biểu tượng có chức năng thông tin về nguồn gốc địa lý của sản phẩm. Tuy nhiên, theo cách định nghĩa về chỉ dẫn địa lý đồng âm thì chỉ có các dấu hiệu từ ngữ mới được xem xét là các chỉ dẫn địa lý đồng âm. (ii) Là các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc của sản phẩm từ các vùng lãnh thổ, các quốc gia được viết hoặc phát âm giống hệt nhau. Tuy nhiên, định nghĩa này chưa làm rõ được một số vấn đề như pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm đối với các loại sản phẩm nào, các chỉ dẫn địa lý được coi là đồng âm khi nó chỉ dẫn đến nguồn gốc của các sản phẩm bất kỳ hay là các sản phẩm cùng loại.

Như vậy, mỗi hệ thống pháp luật khác nhau có cách hiểu về chỉ dẫn địa lý đồng âm theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp khác nhau, tuy nhiên đều có cùng quan điểm cho rằng, chỉ dẫn địa lý đồng âm là các chỉ dẫn được phát âm và viết giống nhau nhưng chỉ dẫn nguồn gốc sản phẩm được sản xuất ở các vùng địa lý khác nhau.

Việc pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam bảo hộ cho chỉ dẫn địa lý đồng âm theo Dự thảo Luật đồng nghĩa với việc công nhận sự tồn tại đồng thời của các chỉ dẫn địa lý giống nhau nhưng chỉ dẫn đến các vùng lãnh thổ, các quốc gia khác nhau. Một số cơ sở bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm bao gồm:

Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm của chỉ dẫn địa lý là dù các dấu hiệu chỉ dẫn nguồn gốc sản phẩm được viết hoặc phát âm giống nhau nhưng không làm mất đi tính phân biệt giữa các chỉ dẫn địa lý đồng âm.

Thứ hai, xuất phát từ vai trò của chỉ dẫn địa lý: Bảo hộ một chỉ dẫn địa lý là chống lại việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đó cho sản phẩm không đạt các chỉ tiêu pháp lý (không có nguồn gốc từ khu vực địa lý tương ứng, không đạt các chỉ tiêu về sản phẩm hoặc các chỉ tiêu về quy trình sản xuất sản phẩm).

Thứ ba, xét về cơ sở pháp lý: Quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam không đề cập đến chỉ dẫn địa lý đồng âm nhưng cũng không nhắc đến việc không bảo hộ cho chỉ dẫn địa lý đồng âm. Một chỉ dẫn địa lý chỉ không được bảo hộ nếu chỉ dẫn địa lý đó khiến cho người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc thật sự của sản phẩm[4].

Đến nay, Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ như Thỏa ước Madrit, Hiệp định TRIPs, Hiệp định EVFTA... Các điều ước quốc tế này đều có một điểm chung là công nhận việc bảo hộ cho các chỉ dẫn địa lý đồng âm. Nên pháp luật về sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận và bổ sung các quy định về bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đồng âm là cần thiết.

2. Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

Trong Dự thảo Luật, bên cạnh việc đưa ra khái niệm về chỉ dẫn địa lý đồng âm còn bổ sung điều kiện cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm, cụ thể: Các chỉ dẫn địa lý đồng âm đáp ứng điều kiện được bảo hộ nếu việc sử dụng thực tế các chỉ dẫn địa lý đó không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Như vậy, để được bảo hộ, chỉ dẫn địa lý đồng âm phải thỏa mãn các điều kiện tương tự như các chỉ dẫn địa lý thông thường khác: (i) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; (ii) Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định. Bên cạnh đó, chỉ dẫn địa lý đồng âm còn phải thỏa mãn thêm điều kiện không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Có thể hiểu, điều kiện này được đặt ra nhằm hạn chế nguy cơ gây nhầm lẫn về nguồn gốc thực sự của sản phẩm của người tiêu dùng, nếu chỉ dẫn địa lý đang được đăng ký khiến cho người tiêu dùng nhầm lẫn là sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó có xuất xứ từ một địa phương khác thì chỉ dẫn địa lý đó sẽ không được bảo hộ.

Có quan điểm cho rằng, không cần thiết phải quy định thêm về chỉ dẫn địa lý đồng âm vào trong luật. Bởi vì, trên cơ sở quy định tại Điều 79, Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ về điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý và các trường hợp loại trừ không bảo hộ chỉ dẫn địa lý, pháp luật không loại trừ việc bảo hộ đồng thời các chỉ dẫn địa lý đồng âm. Pháp luật Việt Nam không căn cứ vào nguyên tắc nộp đơn trước mà vẫn công nhận cho sự tồn tại của các chỉ dẫn địa lý nếu chỉ dẫn đúng về nguồn gốc địa lý và không gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.

Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, cần quy định cụ thể hơn về chỉ dẫn địa lý đồng âm bởi sự tồn tại nguy cơ xung đột giữa các chỉ dẫn địa lý đồng âm khi được sử dụng trên cùng một thị trường. Hiện nay, trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập hoặc ký kết đều có đề cập đến hiện tượng chỉ dẫn địa lý đồng âm và có quy định riêng cho chỉ dẫn địa lý đồng âm như trong Hiệp định TRIPs và gần đây nhất trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã có những thỏa thuận cụ thể để xử lý các vấn đề liên quan đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm.

Bên cạnh đó, dù ở Việt Nam chưa có trường hợp chỉ dẫn địa lý đồng âm nào được bảo hộ, nhưng có thể nhìn thấy rõ nhu cầu về bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm trong tương lai. Năm 2006, Việt Nam đã chấp nhận bảo hộ chỉ dẫn địa lý Pisco của Peru. Năm 2011, Việt Nam đã công nhận Pisco của Chile là chỉ dẫn địa lý theo định nghĩa của Điều 22 Hiệp định TRIPs trong Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Chile. Mới đây, Chile đã nộp đơn yêu cầu bảo hộ chỉ dẫn địa lý Pisco ở Việt Nam… Do đó, pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam cần có các điều kiện riêng cho bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm.

Tuy nhiên, tác giả chưa hoàn toàn đồng ý với cách quy định như ở trong nội dung sửa đổi khoản 2 Điều 79 của Dự thảo Luật. Ở đây, Dự thảo Luật đang xác định điều kiện để chỉ dẫn địa lý đồng âm được bảo hộ, tuy nhiên, điều kiện bổ sung cho chỉ dẫn địa lý đồng âm có sự trùng lặp giữa khoản 2 Điều 79 và khoản 4 Điều 80. Ở hai quy định này đều đề cập đến việc không bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý gây hiểu sai lệch cho người tiêu dùng về nguồn gốc địa lý thực của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đó.

Hiệp định TRIPs hay Hiệp định EVFTA đều không đưa ra điều kiện cụ thể cho việc bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý đồng âm mà làm rõ nghĩa vụ của các quốc gia thành viên cần đưa ra các quy định cụ thể về tính phân biệt giữa các chỉ dẫn địa lý đồng âm. Theo Hiệp định TRIPs, thì chỉ dẫn địa lý đồng âm đối với sản phẩm rượu vang sẽ cùng tồn tại: Mỗi chỉ dẫn địa lý trong số các chỉ dẫn địa lý đồng âm dùng cho rượu vang đều được bảo hộ phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 22. Mỗi thành viên phải xác định các điều kiện thực tế để các chỉ dẫn đồng âm được phân biệt với nhau, trong đó phải bảo đảm đối xử công bằng với các nhà sản xuất và bảo đảm để người tiêu dùng không bị lừa dối (Điều 23.3). Tương tự Hiệp định TRIPs, EVFTA cũng quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên về bổ sung điều kiện cho việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm, theo đó, các bên sẽ cùng nhau quyết định điều kiện thực tế cho việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý đồng âm để các chỉ dẫn địa lý này có thể phân biệt với nhau, có tính đến sự cần thiết phải bảo đảm sự đối xử công bằng giữa các nhà sản xuất liên quan và người tiêu dùng không bị nhầm lẫn. Một tên gọi đồng âm làm cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn rằng một sản phẩm đến từ một lãnh thổ khác sẽ không được đăng ký cho dù tên gọi đó chính là tên của một lãnh thổ, khu vực hoặc địa điểm xuất xứ có thật của hàng hóa liên quan. Điều này có nghĩa là, các quốc gia thành viên phải cung cấp các điều kiện thực tế cần thiết để các chỉ dẫn địa lý đồng âm đó có thể cùng tồn tại một cách hiệu quả. Điều kiện bắt buộc là chúng phải có khả năng phân biệt với nhau, đồng thời đảm bảo rằng người tiêu dùng không bị lừa dối. Việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đồng âm trong Hiệp định TRIPs chỉ liên quan đến rượu vang và được bán trên cùng một thị trường. Khi người tiêu dùng vô tình mua phải hàng hóa ngoài ý muốn, họ được coi là bị lừa. Hiệp định EVFTA cũng đưa ra điều kiện tương tự nhưng mở rộng đối với các sản phẩm khác bên cạnh rượu vang.

Như vậy, Dự thảo Luật mới chỉ nhắc lại nguyên tắc cần có sự phân biệt tránh gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về xuất xứ địa lý của sản phẩm mà chưa chỉ ra các điều kiện cụ thể để tạo ra sự phân biệt giữa các chỉ dẫn địa lý đồng âm.

3. Kiến nghị

Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị cụ thể liên quan đến vấn đề bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đồng âm:

Thứ nhất, cần sửa đổi khái niệm chỉ dẫn địa lý đồng âm trong khoản 22 Điều 4 Dự thảo Luật. Trong đó, cần làm rõ phạm vi bảo hộ chỉ dẫn đồng âm đối với tất cả các sản phẩm hay chỉ một số sản phẩm và các chỉ dẫn địa lý được coi là đồng âm khi nó chỉ dẫn đến nguồn gốc của các sản phẩm bất kỳ hay là các sản phẩm cùng loại. Hiện nay, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm cho nhiều sản phẩm bên cạnh sản phẩm rượu vang đã được một số quốc gia thừa nhận. Hơn nữa, trong Hiệp định EVFTA, Việt Nam đã cam kết thừa nhận việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm dùng cho rượu vang, rượu mạnh, sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm. Như vậy, theo tác giả, chỉ dẫn địa lý đồng âm không nên bị giới hạn trong một, một số sản phẩm cụ thể mà nên mở rộng bảo hộ chỉ dẫn địa lý đồng âm cho tất cả các sản phẩm.

Theo tác giả, nên xem xét chỉ dẫn địa lý đồng âm đối với các dấu hiệu được chỉ dẫn nguồn gốc của các sản phẩm cùng loại. Việc tồn tại đồng thời các chỉ dẫn địa lý đồng âm hoàn toàn hợp lý, bởi vì các chỉ dẫn chỉ ra nguồn gốc địa lý thực sự của các sản phẩm mà chúng được sử dụng. Tuy nhiên, xung đột thường nảy sinh khi các sản phẩm sử dụng chỉ dẫn địa lý đồng âm được bán vào cùng một thị trường và chỉ dẫn đến nguồn gốc của các sản phẩm giống hệt nhau. Việc sử dụng đồng thời các chỉ dẫn địa lý đồng âm trong cùng một lãnh thổ có thể gây ra vấn đề khi sản phẩm sử dụng chỉ dẫn địa lý có những phẩm chất và đặc điểm riêng biệt mà không có sản phẩm sử dụng từ đồng âm của chỉ dẫn địa lý đó. Trong trường hợp này, việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đồng âm sẽ gây hiểu lầm, vì các kỳ vọng liên quan đến chất lượng của sản phẩm mà chỉ dẫn địa lý đồng âm được sử dụng không được đáp ứng. Đối với các chỉ dẫn thương mại khác như nhãn hiệu, khi xét nhãn hiệu đăng ký sau có trùng hay tương tự với nhãn hiệu đã được đăng ký trước hay không, pháp luật cũng chỉ xem xét nhãn hiệu được gắn lên các sản phẩm cùng loại[5]. Trong Hiệp định TRIPs, chỉ dẫn địa lý đồng âm cũng chỉ được xác định đối với các chỉ dẫn đến xuất xứ của các loại rượu vang, nói cách khác, Hiệp định TRIP chỉ công nhận sự tồn tại đồng thời của các chỉ dẫn địa lý đồng âm được gắn với các sản phẩm cùng loại. Bởi vậy, tác giả cho rằng, chỉ xác định là chỉ dẫn địa lý đồng âm để chỉ dẫn nguồn gốc của các sản phẩm cùng loại.

Như vậy, khoản 22 Điều 4 Dự thảo Luật nên được sửa lại như sau: “Chỉ dẫn địa lý đồng âm là các chỉ dẫn địa lý có cách phát âm hoặc cách viết trùng nhau để chỉ dẫn nguồn gốc của các sản phẩm cùng loại”.

Thứ hai, bổ sung các yêu cầu cụ thể trong Điều 79 Dự thảo Luật để đảm bảo tính phân biệt giữa các chỉ dẫn địa lý đồng âm. Theo tác giả, Điều 79 Dự thảo Luật nên quy định thêm về các yêu cầu để đảm bảo hạn chế nhầm lẫn của người tiêu dùng về các chỉ dẫn địa lý đồng âm cùng tồn tại trên thị trường như: Tầm quan trọng của việc trình bày các nhãn đồng âm, đề cập đầy đủ thông tin để phân biệt tránh sự nhầm lẫn của người tiêu dùng…

Thứ ba, cần bổ sung quy định về quyền được thông báo và được góp ý của chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước khi chỉ dẫn địa lý đồng âm được xem xét bảo hộ. Đây là nội dung mà Việt Nam đã cam kết trong Hiệp định EVFTA, bởi vậy, pháp luật sở hữu trí tuệ cần đưa quy định về nội dung này nhằm bảo đảm quyền được thông báo và quyền được góp ý trước khi bảo hộ một chỉ dẫn địa lý đồng âm với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ của chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý đó.

ThS. Nguyễn Thị Nguyệt
Đại học Thương mại



[1]. Theo Merriam Webster’s Collegiate Dictionary.

[2]. Xem quy định Điều 23.3 Hiệp định TRIPs.

[3]. Dự thảo 2.0 ngày 17/11/2020, xem tại http://www.noip.gov.vn/thong-bao/-/asset_publisher/ vTLYJq8Ak7Gm/content/du-thao-luat-sua-oi-bo-sung-mot-so-ieu-cua-luat-so-huu-tri-tue, truy cập ngày 25/02/2021.

[4]. Xem khoản 4 Điều 80 Luật Sở hữu trí tuệ.

[5]. Xem điểm e khoản 2 Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm