Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Căn cứ và nguyên tắc cơ bản khi áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lao động sa thải

Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động có quyền áp dụng hình thức xử lý vi phạm kỷ luật lao động nghiêm khắc nhất, đó là sa thải người lao động trong trường hợp họ đã có hành vi vi phạm kỷ luật được nội quy đơn vị hoặc pháp luật quy định. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải phải được dựa trên các nguyên tắc nhất định và tuân thủ về căn cứ mà pháp luật đã quy định.

Nhằm tạo điều kiện để người sử dụng lao động có sự chủ động trong tổ chức, điều hành và quản lý lao động, cũng như giữ gìn trật tự, kỷ cương và sự ổn định trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình, pháp luật lao động đã cho phép người sử dụng lao động có quyền xử lý hình thức kỷ luật sa thải đối với người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải người lao động, người sử dụng lao động phải tuân thủ các quy định của pháp luật về căn cứ, nguyên tắc cũng như thủ tục xử lý nhất định.

Về căn cứ áp dụng, theo Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2012, hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong những trường hợp:

(i) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;

(ii) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm. (Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật);

(iii) Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng. Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng, bao gồm: Thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

Về nguyên tắc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải, để đảm bảo cho quyền lợi của người lao động, đồng thời tránh sự lạm quyền từ phía người sử dụng lao động, pháp luật lao động đã quy định các nguyên tắc xử lý kỷ luật sa thải tại Điều 123 Bộ luật Lao động năm 2012, bao gồm:

Thứ nhất, người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động. Người sử dụng lao động chỉ được xử lý kỷ luật sa thải khi người lao động “có lỗi” trong việc thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật. “Có lỗi” nếu hành vi vi phạm kỷ luật lao động là kết quả của quá trình nhận thức và sự tự quyết của người lao động khi họ có thể lựa chọn cách xử sự khác phù hợp. Nếu người lao động không có lỗi thì không thể tiến hành xử lý kỷ luật sa thải. Trách nhiệm chứng minh lỗi là của người sử dụng lao động. Người lao động không có nghĩa vụ chứng minh là mình không vi phạm kỷ luật lao động. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người lao động trước sự “độc đoán”, “tùy tiện” của người sử dụng lao động bởi người lao động thường ở vị thế yếu hơn so với người sử dụng lao động, nên việc thu thập chứng cứ, tài liệu để chứng minh mình không có lỗi sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Thứ hai, việc xử lý sa thải phải có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở. Khoản 4 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở”. Đây vừa là một nguyên tắc, vừa là một thủ tục có tính đặc thù của việc xử lý kỷ luật lao động nói chung, trong đó có kỷ luật sa thải. Quy định này giúp tạo ra “thế cân bằng” giữa người lao động và người sử dụng lao động, nhằm đảm bảo cho quá trình xử lý kỷ luật lao động sa thải được diễn ra một cách khách quan, công bằng, đảm bảo quyền lợi của người lao động. Tổ chức đại diện tập thể lao động sẽ cung cấp cho người sử dụng lao động thêm thông tin để đưa ra quyết định xử lý kỷ luật hợp lý và qua đó cũng góp phần nâng cao tính thuyết phục, giáo dục của việc xử lý kỷ luật lao động.

Thứ ba, người lao động có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư bào chữa hoặc người khác bào chữa. Trường hợp, người lao động là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật. Đây là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng và là nguyên tắc chung áp dụng cho mọi loại trách nhiệm pháp lý. Pháp luật cho phép người lao động tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền lợi của mình. Khi đối tượng bị xử lý kỷ luật sa thải là người lao động dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của một số đối tượng nhất định nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động. Nguyên tắc này vừa nhằm mục đích bảo vệ người lao động, vừa đảm bảo cho quá trình xử lý kỷ luật sa thải diễn ra một cách khách quan, đúng pháp luật.

Thứ tư, việc xử lý kỷ luật sa thải phải được lập thành biên bản. Nguyên tắc này giúp quá trình xử lý kỷ luật sa thải diễn ra đúng pháp luật, tạo cơ sở cho quá trình kiểm tra, phát hiện, xử lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nếu người sử dụng lao động có hành vi vi phạm. Đồng thời, khi việc xử lý kỷ luật sa thải được lập thành biên bản, người sử dụng lao động cũng sẽ cẩn trọng hơn trong quá trình xử lý vi phạm kỷ luật lao động, hạn chế sự “tùy tiện” từ phía người sử dụng lao động.

Thứ năm, không xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động đang trong thời gian nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động, đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra về các vi phạm kỷ luật nghiêm trọng hoặc đang trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Nguyên tắc này vừa thể hiện tính nhân đạo vừa thể hiện chính sách ưu tiên đối với lao động nữ. Khi người lao động đang gặp các vấn đề về sức khỏe thì việc xử lý kỷ luật lao động nói chung và kỷ luật sa thải nói riêng sẽ có ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của người lao động (gây ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý hiện tại của người lao động).

Quy định này của pháp luật Việt Nam cũng tương đồng với pháp luật Hàn Quốc. Theo Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 1997, chủ doanh nghiệp không được sa thải người lao động trong thời gian ngừng công việc tạm thời để đi chữa bệnh hay tai nạn nghề nghiệp; không được sa thải lao động nữ trước và sau khi sinh con. Tuy nhiên, người sử dụng lao động được quyền sa thải người lao động để đáp ứng nhu cầu quản lý khẩn cấp: “Sa thải người lao động trong các trường hợp như chuyển nhượng, mua đứt và sáp nhập kinh doanh nhằm tránh các khó khăn về tài chính được xem là nhu cầu quản lý khẩn cấp” (Điều 23). Mặt khác, người sử dụng lao động cũng có trách nhiệm hạn chế việc sa thải. “Trong trường hợp này, chủ doanh nghiệp phải nỗ lực hết sức để tránh sa thải người lao động và phải chọn lựa người lao động sẽ bị sa thải bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn sa thải hợp lý và công bằng” (Điều 24).

Thứ sáu, không xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động trong khi họ mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là nguyên tắc chung áp dụng trong mọi trách nhiệm pháp lý. Người lao động trong những trường hợp trên không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên không bị coi là có lỗi. Thế nên, dù họ có hành vi vi phạm kỷ luật lao động thì cũng không bị xử lý. Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích giáo dục, thuyết phục của việc áp dụng hình thức sa thải. Mục đích này sẽ không đạt được nếu người lao động bị xử lý kỷ luật lao động sa thải là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Nguyên tắc này cũng là một hệ luận của nguyên tắc cá nhân chỉ chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi trái pháp luật nếu có lỗi. Những người không có khả năng nhận thức không được xem là có lỗi khi thực hiện hành vi của mình.

Trường hợp, người lao động có khả năng nhận thức hành vi của mình khi thực hiện hành vi vi phạm kỷ luật lao động nhưng tới thời điểm phát hiện hành vi vi phạm, người lao động mắc bệnh không còn khả năng nhận thức thì không xử lý kỷ luật lao động. Trong trường hợp này, người sử dụng lao động phải đợi cho tới khi người lao động chữa khỏi bệnh và thời hiệu xử lý kỷ luật vẫn còn thì mới có quyền xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động.

Bên cạnh các nguyên tắc trên, Điều 128 Bộ luật Lao động năm 2012 còn có quy định cấm khi áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải:

Một là, cấm mọi hành vi xâm phạm thân thể, nhân phẩm của người lao động khi xử lý kỷ luật sa thải. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm là một trong những quyền cơ bản của con người được quy định tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, theo đó: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Đây là nguyên tắc được quy định xuyên suốt nhằm đảm bảo quyền con người. Nếu người sử dụng lao động vi phạm nguyên tắc này, người lao động có thể yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, chấm dứt hành vi vi phạm của người sử dụng lao động.

Hai là, cấm người sử dụng lao động dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật sa thải. Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2012 đã quy định về các hình thức xử lý kỷ luật lao động. Và ngoài các hình thức kỷ luật được quy định tại Bộ luật này thì người sử dụng lao động không được phép áp dụng bất kỳ một hình thức kỷ luật nào khác. Theo nguyên tắc, khi xử lý kỷ luật lao động, trong đó có hình thức kỷ luật sa thải, người sử dụng lao động không được phép dùng hình thức phạt tiền, cắt lương thay cho việc xử lý kỷ luật sa thải cũng như các hình thức xử lý kỷ luật khác. Quy định này của pháp luật sẽ tránh được trường hợp người sử dụng lao động lợi dụng hình thức phạt tiền, cúp lương để gây khó khăn cho người lao động, để từ đó có thể đảm bảo mức thu nhập cho người lao động, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của việc xử lý kỷ luật lao động đến đời sống của người lao động và gia đình của họ.

Ba là, người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động. Khoản 2 Điều 119 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Nội dung nội quy lao động không được trái với pháp luật về lao động và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Một trong những mục đích của việc áp dụng kỷ luật lao động là giáo dục ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động. Do đó, nếu người lao động thực hiện hành vi không được quy định trong nội quy lao động, thì người sử dụng lao động không thể tiến hành xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động. Nguyên tắc này cũng tránh được sự “tùy tiện” của người sử dụng lao động trong khi áp dụng kỷ luật sa thải đối với người lao động. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 119 Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định: “Người sử dụng lao động sử dụng từ 10 người lao động trở lên phải có nội quy lao động bằng văn bản”. Điều đó có nghĩa là, người sử dụng lao động sử dụng dưới 10 người lao động thì không nhất thiết phải có nội quy lao động bằng văn bản. Vậy những người sử dụng lao động này có quyền xử lý kỷ luật sa thải nếu người lao động vi phạm quy định kỷ luật sa thải hay không? Rất khó để xác định một hành vi có được quy định trong nội quy lao động hay không trong trường hợp nội quy được ban hành bằng “miệng”. Do đó, trong trường hợp này, phải có quy định cụ thể rằng, người sử dụng lao động chỉ có quyền sa thải người lao động nếu hành vi của người lao động đã được quy định trong pháp luật, hợp đồng lao động và các quy định nội bộ hợp pháp của doanh nghiệp.

Tóm lại, kỷ luật sa thải là một biện pháp mang tính chất kỷ luật nặng nề, bởi lẽ, việc sa thải người lao động ngoài việc làm cho người lao động mất quyền lợi, mất việc làm, còn có thể làm người lao động và gia đình của họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy, việc quy định chặt chẽ các điều kiện sa thải người lao động và trình tự, nguyên tắc khi xử lý kỷ luật là điều cần thiết để bảo vệ quyền lợi người lao động. Các nguyên tắc xử lý kỷ luật sa thải trên được đặt ra nhằm đảm bảo để việc áp dụng hình thức sa thải được đúng pháp luật, vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động vừa hướng tới mục đích giáo dục, tuân thủ ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động. Nếu vi phạm một trong các quy định trên thì việc kỷ luật sa thải được xác định là trái pháp luật.

ThS. Nguyễn Thành Vinh

Tòa án nhân dân Quận 1, TP. Hồ Chí Minh



Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: