Chủ nhật 07/12/2025 11:25
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP của Bộ Tư pháp - Một số vấn đề cần trao đổi

Triển khai thực hiện Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ngày 26/10/2013 tại Ninh Bình

Triển khai thực hiện Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, ngày 26/10/2013 tại Ninh Bình, Bộ Tư pháp đã tổ chức Tọa đàm về dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 và dự thảo Đề án phân cấp quản lý các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp. Tham dự Tọa đàm có các đại biểu đại diện Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, đại diện của Sở Tư pháp, Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khu vực phía Bắc. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Lê Hồng Sơn tham dự và chủ trì Tọa đàm.

Theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 của liên Bộ Tư pháp - Bộ Nội vụ, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và công chức tư pháp - hội tịch đã được rà soát, hệ thống hóa và xác định rõ ràng, cụ thể, bảo đảm không chồng chéo với nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và các công chức chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã. Cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đã được kiện toàn thêm một bước để đáp ứng yêu cầu triển khai nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, sau hơn bốn năm triển khai thực hiện, nhiều quy định của Thông tư đã không còn phù hợp với các văn bản mới được ban hành (Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013; Nghị định số 61/2012/NĐ-CP ngày 10/8/2012 của Chính phủ, Luật Lý lịch tư pháp, Luật Bồi thường nhà nước...) cũng như thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp địa phương. Những nhiệm vụ mới và thay đổi cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương cần được hệ thống hóa trong văn bản quy định thống nhất về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư pháp địa phương.

Tại buổi Tọa đàm, nhiều vấn đề đã được đưa ra để các đại biểu tập trung thảo luận như: Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp và việc triển khai công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã; quản lý công tác thi hành án dân sự ở địa phương; số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư Pháp; biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức tư pháp - hộ tịch; tên gọi của công chức tư pháp - hộ tịch... trong đó số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp; biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; công chức tư pháp - hộ tịch và tên gọi của công chức tư pháp - hộ tịch là những vấn đề được các đại biểu quan tâm, thảo luận nhiều nhất tại Tọa đàm.

1. Về số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp

Theo dự thảo Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009, đến nay về số lượng, tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 3 của dự thảo Thông tư liên tịch. Dự thảo quy định các phòng chuyên môn nghiệp vụ được thành lập phù hợp với đặc điểm của từng địa phương theo các lĩnh vực: Xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (bao gồm kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật); kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật (bao gồm phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải ở cơ sở); hành chính tư pháp (bao gồm hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, con nuôi có yếu tố nước ngoài, bồi thường nhà nước, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm); bổ trợ tư pháp (bao gồm quản lý luật sư và tư vấn pháp luật, trọng tài thương mại, thi hành án dân sự, các lĩnh vực tư pháp khác). Căn cứ vào khối lượng công việc, tính chất, đặc điểm quản lý của công tác tư pháp cụ thể của địa phương, Giám đốc Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể tên gọi và số lượng các phòng nghiệp vụ để bao quát các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở, nhưng số lượng các phòng nghiệp vụ không quá 6 phòng đối với các tỉnh, không quá 8 phòng đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Hiện nay, có 02 loại ý kiến về số lượng và tên gọi các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp. Ý kiến thứ nhất cho rằng nên quy định thống nhất tên gọi, số lượng các phòng thuộc Sở Tư pháp để thuận lợi cho việc quản lý tổ chức bộ máy. Ý kiến khác lại cho rằng, không nên quy định thống nhất tên gọi của các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp vì vấn đề này thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân. Trao đổi về vấn đề này, các đại biểu tham gia hội thảo đều thống nhất ý kiến, cho rằng việc quy định tên gọi của các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Tư pháp nên thống nhất trong toàn quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức công việc giữa các Sở Tư pháp trong cả nước. Về vấn đề này, đồng chí Nguyễn Hùng Tiến, Giám đốc Sở Tư pháp Ninh Bình cho rằng nên thống nhất tên gọi các phòng nghiệp vụ của Sở Tư pháp trong toàn quốc để tạo thuận lợi trong quá trình công tác.

2. Về biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức tư pháp - hộ tịch

Biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức tư pháp - hộ tịch là một trong những vấn đề "nóng" tại buổi Tọa đàm.

Biên chế của Sở Tư pháp theo dự thảo Thông tư liên tịch: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc, tính chất và đặc điểm của công tác tư pháp ở địa phương, Giám đốc Sở Tư pháp phối hợp với Giám đốc Sở Nội vụ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế công chức của Sở Tư pháp trong tổng số biên chế công chức của cấp tỉnh, đảm bảo mỗi phòng chuyên môn thuộc Sở có tối thiểu 05 người, trong đó có 01 trưởng phòng, không quá 02 phó trưởng phòng và các công chức chuyên môn. Biên chế sự nghiệp của các tổ chức sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo định mức biên chế và quy định của pháp luật. Việc tuyển dụng, bố trí công chức, viên chức của Sở Tư pháp phải căn cứ vào vị trí việc làm, chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp của viên chức nhà nước theo quy định.

Biên chế công chức của Phòng Tư pháp do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định trong tổng biên chế công chức của huyện được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ.

Theo đó, dự thảo Thông tư quy định số biên chế tối thiểu của các phòng chuyên môn thuộc Sở Tư pháp, của Phòng Tư pháp cấp huyện, số lượng công chức làm công tác tư pháp - hộ tịch tối thiểu ở mỗi cấp xã để đảm bảo đủ số lượng cán bộ triển khai nhiệm vụ, đồng thời vẫn bảo đảm thẩm quyền của địa phương quyết định cụ thể số lượng biên chế giao cho các cơ quan tư pháp địa phương và công chức tư pháp - hộ tịch. Cũng có ý kiến cho rằng không nên quy định số lượng biên chế của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, công chức tư pháp - hộ tịch vì đây là nhiệm vụ được phân cấp cho địa phương. Nhiều ý kiến thảo luận về vấn đề này. Các đại biểu tham dự Tọa đàm là đại diện của các Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, là những người đang trực tiếp làm thực hiện nhiệm vụ đều cho rằng hiện nay biên chế cán bộ làm công tác tư pháp tại địa phương rất khó khăn. Ngành Tư pháp với nhiều nhiệm vụ mới như công tác lý lịch tư pháp, công tác bồi thường nhà nước và mới đây là công tác kiểm soát thủ tục hành chính, số lượng công việc tăng thêm rất nhiều nhưng không đủ cán bộ đảm nhiệm công việc. Việc chuyển giao công việc, con người làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính từ Ủy ban nhân dân sang Sở Tư pháp cũng còn nhiều khó khăn. Có những cán bộ làm công tác này tại Ủy ban nhân dân xin chuyển sang các phòng, ban khác mà không muốn sang Sở Tư pháp hoặc những cán bộ làm công tác kiểm soát thủ tục hành chính chưa đạt về chuyên môn, nghiệp vụ... Các đại biểu cũng phản ánh, hiện nay cán bộ làm công tác tư pháp tại địa phương phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc mới, và đề nghị Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ nghiên cứu có cơ chế phù hợp để tháo gỡ vấn đề này. Đại diện đến từ Bộ Nội vụ cũng cho biết, về biên chế từ nay đến năm 2016 với chủ trương không tăng biên chế, vì vậy việc xin thêm biên chế trong giai đoạn này là hết sức khó khăn. Các Sở Tư pháp cần chủ động trong việc bố trí nhân lực phù hợp, đảm bảo tính thống nhất về thể chế. Sở Tư pháp phải phối hợp với Sở Nội vụ để hoàn thiện đề án vị trí việc làm, nếu thực sự cần thiết phải tăng thêm biên chế thì phải thể hiện trong đề án để làm cơ sở tăng biên chế cho các Sở Tư pháp. Bên cạnh đó, ở địa phương có thể nghiên cứu đến phương án đề xuất điều chỉnh biên chế từ các đơn vị sự nghiệp (viên chức) sang biên chế hành chính (công chức) theo các quy định của pháp luật về quản lý công chức, viên chức, báo cáo đề xuất để Lãnh đạo Bộ Nội vụ nghiên cứu và có những chủ trương cụ thể, phù hợp.

3. Về tên gọi của công chức tư pháp - hộ tịch

Tên gọi của công chức tư pháp - hộ tịch cũng được các đại biểu quan tâm, thảo luận sôi nổi. Hiện nay, tại Điều 8 dự thảo Thông tư liên tịch quy định: "Ở cấp xã có công chức tư pháp - hộ tịch tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn tại Điều 7 của Thông tư liên tịch này. Đối với những xã, phường, thị trấn có khối lượng công việc lớn, căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bố trí ít nhất là 02 công chức tư pháp - hộ tịch đối với cấp xã loại 1 và loại 2 và ít nhất là 01 công chức tư pháp - hộ tịch đối với cấp xã loại 3".

Có ý kiến cho rằng nên đổi tên gọi của công tư pháp - hộ tịch thành công chức tư pháp cấp xã vì nay công chức tư pháp đang được giao nhiều nhiệm vụ mới, nhiều nhiệm vụ được tăng cường, mở rộng hơn trong các lĩnh vực như kiểm soát thủ tục hành chính, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, tiếp cận pháp luật của người dân ở cơ sở... Đồng thời, trong thời gian tới khi dự thảo Luật Hộ tịch được Quốc hội thông qua, khi đó chức danh hộ tịch viên sẽ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã. Do đó việc ghép chung hai loại nhiệm vụ này trong cùng một chức danh tư pháp - hộ tịch là không còn phù hợp. Việc tách chức danh công chức tư pháp - hộ tịch thành hai chức danh "công chức tư pháp cấp xã" và chức danh "hộ tịch viên" để đảm bảo tính chuyên môn hóa trong việc thực hiện các nhiệm vụ về tư pháp, hộ tịch ở cấp xã vừa đón đầu được các quy định mới trong tương lai. Ý kiến này đã được đa số các đại biểu đồng tình.

Tuy nhiên, việc tách hai chức danh này cũng sẽ gặp phải không ít khó khăn về biên chế cán bộ và các chế độ chính sách kèm theo. Theo quy định của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2012 của Chính phủ quy định về công chức tư pháp - hộ tịch là một trong 7 chức danh công chức cấp xã. Theo đó, việc phân bổ về số lượng công chức cấp xã, quy định về tuyển dụng, chế độ tiền lương, phụ cấp, chế độ chính sách khác cho công chức cấp xã (trong đó có chức danh công chức tư pháp - hộ tịch) đều phải thực hiện theo quy định của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP và Nghị định số 112/2011/NĐ-CP. Việc tách chức danh tư pháp - hộ tịch thành hai chức danh "công chức tư pháp" và "công chức hộ tịch" sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc hưởng các chế độ chính sách của công chức cấp xã, do đó vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu thêm.

Nguyễn Thị Vinh

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: