Chủ nhật 15/06/2025 22:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ logistics ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu những giải pháp cơ bản góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu về nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam.


Abstract: The paper focuses on the study of fundamental solutions contributing to the effective implementation of goals on improving competition capability and logistics service development in Vietnam.

Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao (Điều 233 Luật Thương mại năm 2005).

Là quốc gia có vị trí địa lý vô cùng thuận lợi cho hoạt động logistics, tuy nhiên trong nhiều năm trước đây, Việt Nam thiếu chiến lược rõ ràng nhằm phát triển dịch vụ logistics. Đến năm 2017, với Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 (Quyết định số 200/QĐ-TTg) thì những quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển và các nhiệm vụ chủ yếu đã được đặt ra mang tầm chiến lược.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy để triển khai thực hiện chiến lược của Chính phủ về phát triển dịch vụ logistics là một chặng đường dài nhiều khó khăn và phức tạp. Hoạt động đầu tiên phản ánh nỗ lực của Chính phủ là tổ chức thành công diễn đàn logistics Việt Nam năm 2017 với chủ đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam” do Bộ Công Thương chủ trì được tổ chức ngày 15/12/2017 tại Hà Nội. Qua đó cho thấy bức tranh toàn cảnh về dịch vụ logistics của Việt Nam. Chi phí logistics ở nước ta còn ở mức cao, tương đương 20% GDP (trong khi các nước phát triển chỉ từ 9-14%) nhưng chỉ đóng góp khoảng 3% vào GDP. Tỷ lệ thuê ngoài khoảng 35 - 40%, số lượng doanh nghiệp logistics của nước ta có khoảng 3.000 doanh nghiệp hoạt động trong ngành dịch vụ logistics nhưng chỉ chiếm thị phần là 25%, trong khi đó chỉ với 30 doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam nhưng chiếm tới 75% thị phần logistics của Việt Nam [1]…

Như vậy, để đạt được các mục tiêu như Chính phủ đề ra là đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên…[2], thì công việc đặt ra cho các bộ, ngành, địa phương là khá nặng nề. Để phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam và hoàn thành các mục tiêu theo Quyết định số 200/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật kinh doanh dịch vụ logistics

Các quy định của pháp luật về dịch vụ logistics có phạm vi rất rộng, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Ở Việt Nam, chưa có một cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm hệ thống hóa, tập hợp hóa văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ logistics, mà mỗi cơ quan, mỗi ngành khác nhau lại có hệ thống tập hợp riêng, triển khai riêng. Do đó, việc nghiên cứu pháp luật dịch vụ logistics một cách đầy đủ và chính xác còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế.

Khó khăn, vướng mắc nữa cũng bắt nguồn từ các quy định của pháp luật là dịch vụ logistics rất rộng, trải dài trên nhiều ngành, nghề khác nhau. Vì vậy, các nhà làm luật đã không thể dự liệu hết được nên còn để lại những khoảng trống pháp lý nhất định. Bên cạnh đó, khi ban hành các quy định về logistics các cơ quan chủ quan, các nhà làm luật đã thiếu sự khảo sát thực tế, thiếu sự nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài và hạn chế trong tổ chức đối thoại, lấy ý kiến,... Do đó, còn có những quy định mang tính hình thức, thiếu tính thực tế và còn có những khoảng trống pháp lý nhất định cần thiết phải được hoàn thiện.

Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý cho việc nâng cao sức cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics.

Về hướng hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động logistics: Phải đảm bảo hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch và không còn xung đột hay khoảng trống pháp lý. Do đó, giải pháp trước mắt Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tư pháp cần phối hợp rà soát các cam kết quốc tế về dịch vụ logistics tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các hiệp định thương mại tự do (FTA),… để kiến nghị Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung và có các biện pháp đảm bảo tránh xung đột trong cam kết về logistics tại các diễn đàn quốc tế, tránh xung đột giữa cam kết quốc tế về logistics với pháp luật trong nước, giải quyết các mâu thuẫn của pháp luật trong nước với nhau và khỏa lấp khoảng trống pháp lý trong điều chỉnh kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam. Theo đó, tập hợp hóa, hệ thống hóa pháp luật điều chỉnh kinh doanh dịch vụ logistics nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận nhanh chóng, đầy đủ hệ thống pháp luật về kinh doanh dịch vụ logistics tại Việt Nam.

Về lâu dài, cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại năm 2005 theo hướng tách dịch vụ logistics khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại để xây dựng luật riêng - Luật Kinh doanh dịch vụ logistics. Theo đó, đối tượng và phạm vi điều chỉnh bao hàm tất cả các dịch vụ logistics có liên quan từ đầu tư, kinh doanh cho đến các ngành nghề có liên quan như giao thông vận tải, kho bãi, hải quan,…

Thứ hai, giải pháp về thu hút nguồn lực đầu tư nước ngoài

Để thu hút được nguồn lực đầu tư nước ngoài bao gồm nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao và kinh nghiệm hoạt động logistics của các nhà đầu tư nước ngoài thì Việt Nam cần phải có cơ chế, chính sách thật rõ ràng và minh bạch. Cơ chế, chính sách này cần tập trung vào đầu tư hạ tầng cơ sở. Bởi lẽ, cơ sở hạ tầng là cái quyết định kiến trúc thượng tầng, bảo đảm cho chiến lược về dịch vụ logistics của Việt Nam được thực hiện thắng lợi, thành công.

Quyết định số 200/QĐ-TTg thể hiện rõ quan điểm: “Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế”. Cùng với quan điểm này là mục tiêu: “Tập trung thu hút đầu tư vào phát triển hạ tầng logistics, xây dựng các trung tâm logistics cấp khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả kết nối giữa Việt Nam với các nước. Đưa Việt Nam trở thành một đầu mối logistics của khu vực”.

Cụ thể hơn, tại nhiệm vụ số 14 trong các nhiệm vụ cụ thể nâng cao năng lực cạnh trạnh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 được ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-TTg đã quy định rõ trách nhiệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng logistics. Trong đó, việc ban hành chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ logistics và phát triển kết cấu hạ tầng logistics phải được hoàn thiện vào năm 2019.

Có thể nói, đây là giải pháp cơ bản nhằm thu hút được nguồn lực từ các nhà đầu tư trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài nhằm phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam. Tuy nhiên, để thu hút hút được đầu tư vào hạ tầng logistics Việt Nam, ngoài chính sách ưu đãi thu hút đầu tư thì việc quy hoạch hạ tầng cụ thể để quảng bá, mời chào các nhà đầu tư tham gia đấu thầu công khai, minh bạch là một giải pháp hữu hiệu để thực hiện hiệu quả chiến lược logistics Việt Nam.

Vì vậy, giải pháp đặt ra cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư là phải quy hoạch và công khai quy hoạch các dự án hạ tầng logistics cần thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, trong đó xác định những dự án hạ tầng logistics cần phải làm ngay và các dự án hạ tầng logistics trong kế hoạch lâu dài để các nhà đầu tư có thời gian chuẩn bị tham gia đầu thầu, liên minh, liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh một cách có hiệu quả nhất.

Thứ ba, vấn đề bảo hộ nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước

Bất kỳ nước nào cũng xây dựng những chính sách bảo hộ cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp và lao động trong nước. Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có chính sách đúng đắn trong mở cửa thị trường logistics cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng cũng luôn bảo hộ những nhà đầu tư và doanh nghiệp trong nước. Đây luôn là hai mặt của một vấn đề, không dễ dàng để thực hiện khi mà hoạt động logistics của Việt Nam còn khá non trẻ, yếu kém từ vốn, kinh nghiệm cho tới nguồn nhân lực,…

Bên cạnh đó, hiện tại Việt Nam đã và đang phải thực hiện đúng các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường logistics thì việc bảo hộ cứng nhắc, mang tính cấm đoán, cho phép hoặc không cho phép kinh doanh dịch vụ logistics không còn phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, Việt Nam cần phải có giải pháp căn cơ cho vấn đề này.

Theo đó, giải pháp cho vấn đề chống cạnh tranh không lành mạnh, tránh việc chiếm lĩnh thị trường độc quyền logistic của các nhà đầu tư nước ngoài, bảo hộ thị phần logistics trong nước, thì Việt Nam phải thực hiện đồng bộ và tổng thế các giải pháp bao gồm: Xây dựng, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước, trong đó đặc biệt phải xây dựng được những tập đoàn logistics mạnh và đủ sức cạnh tranh với các tập đoàn trên thế giới; đào tạo nguồn nhân lực; thông tin, truyền thông về logistics;…

Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh giải pháp cơ bản và hữu hiệu nhất là xây dựng những tập đoàn trong nước vững mạnh cả về vốn, mối quan hệ và nguồn nhân lực. Đây là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã trải qua. Những tập đoàn này là hạt nhân để liên kết, kết nối các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics trong nước lại với nhau tạo nên một hệ thống chỉnh thể và thống nhất để thực hiện logistics 3PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng), 4PL (logistics chuỗi phân phối hay nhà cung cấp logistics chủ đạo) và thậm chí là 5PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ năm). Việt Nam đang thuận lợi là một số doanh nghiệp có vốn sở hữu của nhà nước có nguồn lực khá tốt để thực hiện được chiến lược này.

Quyết định số 200/QĐ-TTG đã nêu rõ quan điểm của Việt Nam là “tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics. Phát triển các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics về số lượng, quy mô, trình độ nhân lực, có năng lực cạnh tranh cao ở thị trường trong nước và quốc tế”[3]. Với mục tiêu là “hình thành các doanh nghiệp dịch vụ logistics đầu tàu, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, đồng thời hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp dịch vụ logistics theo phương châm hiện đại, chuyên nghiệp”[4]. Thực hiện tốt quan điểm và mục tiêu này, chính là giải pháp bảo đảm hiệu quả nhất thị trường logistics cho nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước và vươn tầm ra thế giới.

Giải pháp đặt ra cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Công thương, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam là phải có cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm xây dựng những tập đoàn mạnh về logistics, tiến tới đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ logistics; Hình thành những doanh nghiệp/tập đoàn lớn về logistics, tạo định hướng và động lực phát triển thị trường logistics.

Thứ tư, về cơ sở hạ tầng logistics

Cơ sở hạ tầng logistics quyết định đến nhiều vấn đề quan trọng trong nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics, trong đó có vấn đề về giảm chi phí dịch vụ logistics,… Vì vậy, Việt Nam cần phải có chiến lược trước mắt cũng như lâu dài về hạ tầng logistics. Theo đó, chiến lược này phải đa dạng hóa các loại hình giao thông, kết nối giao thông từ đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển, đường hàng không với các trung tâm logistics, kho vận,… Để thực hiện được chiến lược này, Việt Nam cần có nguồn vốn lớn của các nhà đầu tư, của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do đó, yêu cầu đặt ra là Việt Nam phải quy hoạch và xác định những dự án nào Nhà nước thực hiện, dự án nào dành cho doanh nghiệp trong nước và dự án nào cần phải thu hút đầu tư nước ngoài. Từ đó, có cơ chế khuyến khích, ưu đãi, giới thiệu, mời chào để thu hút các nhà đầu tư thực hiện đầu tư vào hạ tầng logistics.

Giải pháp này đặt ra cho các bộ, ngành, địa phương là phải kiến nghị Chính phủ nghiên cứu thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về logistics. Theo đó, Ban chỉ đạo này chỉ đạo/lãnh đạo thống nhất lập quy hoạch hạ tầng logistics Việt Nam trên phạm vi toàn quốc cần phải đầu tư, hoàn thiện. Từ quy hoạch này, những dự án nào cần phải xã hội hóa đầu tư, cũng như thu hút nguồn đầu tư nước ngoài thì tiến hành công bố/niêm yết công khai trên cổng thông tin điện tử của Ban chỉ đạo, của các bộ, ngành, địa phương có liên quan để kêu gọi, mời gọi đầu tư.

Thứ năm, về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ dịch vụ logistics

Nguồn nhân lực logistics của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhân lực ngành logistics thiếu kiến thức toàn diện, trình độ công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) còn hạn chế, chưa theo kịp tiến độ phát triển của logistics thế giới. Trình độ tiếng Anh nghiệp vụ logistics còn hạn chế, chỉ khoảng 4% nhân lực thông thạo tiếng Anh nghiệp vụ. Trong khi đó, nhu cầu sử dụng nhân lực theo dự báo đến năm 2025 là khoảng 300.000 nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn, ICT và tiếng Anh đáp ứng yêu cầu trong điều kiện Cách mạng công nghiệp 4.0 trong số khoảng 1,2 triệu người hoạt động trong lĩnh vực logistics[5].

Vì vậy, giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ dịch vụ logistics là đặc biệt quan trọng. Trong giải pháp này, việc đào tạo nguồn nhân lực từ trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học. Bên cạnh đó, đào tạo cần có sự hợp tác quốc tế, liên kết và có sự đặt hàng từ nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp; phải đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng có sự kết hợp giữa Nhà nước và tư nhân, phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về nhân lực đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Vì vậy, Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải phối hợp xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ dịch vụ logistics. Trong chiến lược này, giao chỉ tiêu cho các trường đại học, cao đẳng, trung cấp có năng lực thực hiện việc đào tạo nguồn nhân lực; có chính sách khuyến khích các trường hợp tác với các cơ sở đào tạo nhân lực logistics có uy tín trên thế giới để đào tạo nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam.

Đinh Duy Bằng

Văn phòng Luật sư Trường Thành

Tài liệu tham khảo:

[1]. Báo Pháp luật Việt Nam, “75% dịch vụ logistics ở Việt Nam do doanh nghiệp ngoại vận hành”, http://baophapluat.vn/thi-truong/75-dich-vu-logistics-o-viet-nam-do-doanh-nghiep-ngoai-van-hanh-371295.html.

[2]. Mục 2 phần II Quyết định số 200/QĐ-TTg.

[3]. Mục 5 phần I Quyết định số 200/QĐ-TTg.

[4]. Mục 3 phần II Quyết định số 200/QĐ-TTg.

[5]. Bộ Công thương, Báo cáo logistics Việt Nam năm 2017: Logistics từ kế hoạch đến hành động, tr. 26-127.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm