Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải quyết ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ chồng trong trường hợp không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Giải quyết ly hôn hay không công nhận quan hệ vợ chồng trong trường hợp không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả phân tích căn cứ ly hôn, không công nhận quan hệ vợ chồng, vấn đề giải quyết yêu cầu ly hôn khi mất giấy chứng nhận kết hôn qua ví dụ thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị.

Abstract: In this article, the author analyzes the grounds for porce, non-recognition of the husband-and-wife relationship, the issue of resolving the porce request when the marriage certificate is lost through practical examples and makes some recommendations.

1. Thực tiễn giải quyết của Tòa án trong trường hợp các bên yêu cầu ly hôn nhưng không còn giấy tờ xác nhận sự tồn tại của quan hệ hôn nhân

Trong thực tiễn xét xử, có những trường hợp các đương sự khi nộp đơn yêu cầu ly hôn trình bày là có đăng ký kết hôn nhưng họ đã làm mất giấy chứng nhận kết hôn (GCNKH). Họ đã đến Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã nơi đăng ký kết hôn để yêu cầu cấp trích lục kết hôn nhưng UBND cấp xã trả lời rằng do sổ hộ tịch của xã đã bị mất hoặc không còn lưu hồ sơ nên không thể xác nhận việc đăng ký kết hôn của họ. Trong những trường hợp này, các Tòa án đã có hướng giải quyết khác nhau. Tác giả đưa ra hai vụ án điển hình về vấn đề này.

Trường hợp thứ nhất: Anh A và chị B tổ chức đám cưới vào năm 1994, có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện N, tỉnh N nhưng GCNKH đã mất. Nay anh chị có yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. Tại biên bản xác minh ngày 26/6/2019, UBND xã S xác nhận anh A và chị B chung sống với nhau từ năm 1994 và hiện nay UBND không còn sổ lưu về việc đăng ký kết hôn này. Tòa án đã tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B[1].

Trường hợp thứ hai: Trong đơn ly hôn, anh Q và chị H trình bày tổ chức đám cưới vào ngày 27/12/1987, có đăng ký kết hôn tại UBND xã G. Tuy nhiên, anh chị không đưa ra được GCNKH với lý do đã làm mất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Q và chị H có đăng ký kết hôn căn cứ vào lời xác nhận của ông T - Phó Ban Công an phụ trách hộ tịch hộ khẩu xã G năm 1987 (người trước đây đã thực hiện đăng ký kết hôn cho anh Q, chị H). Do đó, Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm đã công nhận sự thỏa thuận thuận tình ly hôn giữa anh Q và chị H. Sau đó, Bản án sơ thẩm đã bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị với lý do Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của đương sự và giấy xác nhận của ông T để giải quyết công nhận thuận tình ly hôn là chưa đủ căn cứ. Tòa án cấp phúc thẩm đã về địa phương để xem xét lại tính xác thực của chứng cứ về việc đăng ký kết hôn của đương sự. UBND xã G đã cung cấp như sau: Anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Bởi vì sổ sách để theo dõi việc đăng ký kết hôn từ năm 1987 đến năm 1990 bị thất lạc, không còn lưu tại UBND nữa, cho nên UBND đã căn cứ vào lời trình bày của ông T để xác nhận việc anh Q và chị H có đăng ký kết hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy đã đủ căn cứ xác định anh Q, chị H có đăng ký kết hôn, giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm về quyết định công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Q, chị H[2].

Trong các trường hợp trên, để được xem là vợ chồng thì đương sự phải chứng minh được quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp. Về nghĩa vụ chứng minh, pháp luật quy định đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp[3]. Nếu đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc. Như vậy, để được giải quyết cho ly hôn, các bên phải chứng minh mối quan hệ vợ chồng giữa họ bằng việc cung cấp GCNKH. Nhưng trong các trường hợp này, do các bên đã làm mất GCNKH nên cần căn cứ vào sổ hộ tịch được lưu trữ tại UBND.

Theo quy định của pháp luật về hộ tịch, đối với trường hợp sổ hộ tịch bị mất và người dân cũng bị mất GCNKH bản chính, thì cần phải có GCNKH bản sao hoặc giấy tờ cá nhân có chứa các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật cho phép người dân dùng các giấy tờ có liên quan đến việc đã từng đăng ký kết hôn để chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp khi họ thực hiện việc đăng ký lại kết hôn[4]. Như vậy, tại sao không cho phép các bên yêu cầu giải quyết ly hôn trong trường hợp này có thể chứng minh quan hệ hôn nhân của họ bằng nhiều cách thức?

Tác giả đồng ý với cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh trong trường hợp thứ hai nêu trên. Bởi lẽ, so với trường hợp thứ nhất, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã xét xử một cách linh hoạt hơn.

Ngoài ra, đối với trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn trước ngày 03/01/1987 mà làm mất GCNKH và có yêu cầu ly hôn thì cách giải quyết sẽ khác các trường hợp trên, bởi vì đây là giai đoạn Nhà nước công nhận hôn nhân thực tế[5]. Do đó, nếu họ có đăng ký kết hôn nhưng đã làm mất GCNKH mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án vẫn giải quyết cho họ ly hôn.

2. Một số kiến nghị

Trong trường hợp không công nhận quan hệ vợ chồng nêu trên, cách giải quyết sẽ khác nếu như các cặp đôi được UBND cấp xã cấp trích lục kết hôn căn cứ vào thông tin lưu trong sổ hộ tịch. Trong trường hợp này, việc không chứng minh được quan hệ vợ chồng giữa các bên lỗi không hoàn toàn ở các bên đương sự. Hai bên đương sự có lỗi vì đã làm thất lạc GCNKH, phần lỗi còn lại thuộc về UBND khi không còn giữ sổ hộ tịch dẫn đến việc không thể cấp trích lục kết hôn cho hai bên. Từ thực tiễn xét xử cho thấy hiện nay tình trạng này đang diễn ra khá nhiều nhưng pháp luật nước ta vẫn chưa điều chỉnh dẫn đến việc có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Cụ thể là, trong quá trình giải quyết ly hôn, Tòa án sẽ tiến hành hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa họ. Tài sản chung của vợ chồng được xem là tài sản chung hợp nhất, nếu vợ chồng ly hôn thì việc chia tài sản sẽ tiến hành theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Ngược lại, nếu giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng thì sẽ không có thủ tục hòa giải hôn nhân và tài sản của họ sẽ giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự[6].

Tham khảo quy định của Bộ luật Dân sự Pháp, việc kết hôn được thể hiện qua chứng thư hộ tịch, chứng thư hộ tịch được mỗi địa phương ghi vào một hoặc nhiều sổ đăng ký (Điều 34, 40[7]). Nếu không có sổ đăng ký hộ tịch hoặc sổ đăng ký hộ tịch bị thất lạc thì có thể chứng minh bằng chứng thư hoặc thông qua người làm chứng; trong các trường hợp trên, việc kết hôn có thể được chứng minh bằng sổ sách hoặc giấy tờ bắt nguồn từ người cha và người mẹ đã chết hoặc thông qua người làm chứng[8]. Có thể thấy, quy định của Bộ luật Dân sự Pháp là hợp lý và thuyết phục trong việc cho phép chứng minh việc đăng ký kết hôn bằng nhiều cách thức.

Tác giả kiến nghị, nên cho phép hai bên đương sự chứng minh quan hệ hôn nhân của mình là hợp pháp bằng nhiều cách thức thay vì chỉ chấp nhận GCNKH hoặc dựa vào sổ hộ tịch. Trong trường hợp sổ hộ tịch không còn, có thể áp dụng linh hoạt như cách giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh ở ví dụ thứ hai, căn cứ vào lời xác nhận của người có liên quan đến việc đăng ký kết hôn cho hai bên đương sự hoặc có thể cho phép đương sự nộp các giấy tờ cá nhân có thể hiện các thông tin liên quan đến nội dung đăng ký kết hôn như: Giấy khai sinh của con chung; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; sổ hộ khẩu…

ThS. Nguyễn Ngọc Hoa Đăng

Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Bản án số 36/2019/HN&GĐ-ST ngày 08/8/2019 “V/v Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về nuôi con” của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình, https://congbobanan.toaan.gov.vn/ 2ta340268t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 21/3/2023.

[2]. Lê Vĩnh Châu - Lê Thị Mận (2011), Tuyển tập các Bản án, Quyết định của Tòa án Việt Nam về hôn nhân và gia đình, Nxb. Lao động, tr. 500 - 503.

[3]. Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[4]. Xem Điều 27 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.

[5]. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

[6]. Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[7]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), Bản dịch Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư pháp, tr. 29 - 30.

[8]. Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam (2018), (tlđd), tr. 30.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: