Chủ nhật 07/12/2025 19:31
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích một số vướng mắc, bất cập về xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định này.

Abstract: The article focuses on analyzing a number of problems and inadequacies in sanctioning administrative violations in the 2012 Law on Handling of Administrative Violations (amended and supplemented in 2020), thereby, proposing solutions to improve the regulation.

Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (sau đây gọi là Luật Xử lý vi phạm hành chính), sau hơn 10 năm đi vào đời sống, đã trở thành một trong những công cụ pháp lý quan trọng của các cơ quan thực thi pháp luật trong công tác xử lý các hành vi vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đem đến sự thay đổi tích cực trong công tác thực thi pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, xử lý vi phạm hành chính.

Sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2020, nội dung về xử phạt hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính đã phần nào khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính, vừa bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số nội dung cần xem xét trên cơ sở khoa học, thực tiễn, kỹ thuật lập pháp để hoàn thiện hơn, góp phần tạo tiền đề để công tác xử phạt vi phạm hành chính bảo đảm đúng các nguyên tắc, quy định của pháp luật và thống nhất, đồng bộ. Cụ thể:

Thứ nhất, về thẩm quyền.

Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Giám đốc Công an tỉnh có thẩm quyền xử phạt như một đơn vị trực thuộc cục nghiệp vụ trong lĩnh vực an ninh trật tự. Khi vượt thẩm quyền thì trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc cục nghiệp vụ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hai cơ quan này đều từ chối ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, dẫn đến chồng chéo trong xử lý vi phạm hành chính và hành vi vi phạm hành chính có mức xử phạt cao sẽ không bị xử lý.

Bên cạnh đó, Giám đốc Công an tỉnh chỉ được xử phạt 50% mức tối đa, trong khi đó, thẩm quyền của Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh được xử phạt mức tối đa trong lĩnh vực tương ứng. Vì vậy, theo tác giả, cần quy định tăng thẩm quyền cho Giám đốc Công an tỉnh theo hướng tăng thẩm quyền được xử phạt mức tối đa. Bên cạnh đó, để tránh chồng chéo trong xử phạt vi phạm hành chính thì nên gộp khoản 5, khoản 6 Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Thực tế thời gian qua cho thấy, một số chủ thể có thẩm quyền xử phạt do nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc xử phạt về mức tiền phạt nên khi áp dụng xử phạt thường đùn đẩy trách nhiệm xử phạt. Để khắc phục tình trạng chuyển hồ sơ xử lý vụ việc vi phạm hành chính không đúng quy định, theo tác giả, các cơ quan và người có thẩm quyền xử phạt cần hiểu và nắm chắc các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính để áp dụng đúng, tránh đùn đẩy công việc; việc xử phạt phải bảo đảm đúng nguyên tắc, đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và không để xảy ra tình trạng phải hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính vì xử phạt không đúng thẩm quyền (nếu có khiếu nại, khởi kiện xảy ra).

Thứ hai, về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, trong đó thủ tục không lập biên bản chỉ được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, đến 500.000 đồng đối với tổ chức. Tất cả các trường hợp còn lại đều áp dụng theo thủ tục có lập biên bản. Với quy định như vậy, tác giả nhận thấy còn có sự bất cập, cụ thể: Việc xử phạt hành vi vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, tuy nhiên, sau đó lại quyết định không khởi tố vụ án hình sự, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án nhưng vẫn phải lập biên bản vi phạm hành chính thì khi đó, vi phạm hành chính đã xảy ra khá lâu và các cơ quan tố tụng đã có nhiều hoạt động nhằm ghi nhận, xác minh thông tin liên quan đến vi phạm đó nhưng chưa lập biên bản. Lúc này, việc lập biên bản vi phạm hành chính chủ yếu mang tính hình thức. Như vậy, theo tác giả, để bảo đảm nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đúng thủ tục theo quy định của pháp luật thì cần có quy định về trường hợp ngoại lệ, trường hợp phải lập biên bản nhưng vẫn áp dụng thủ tục không lập biên bản vi phạm hành chính, tránh việc lập biên bản chỉ là hình thức, thiếu tính thực tế.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì: “Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức…”. Trên thực tế, quy định này có thể được hiểu là: (i) Bất cứ hành vi nào có mức phạt tiền trên 250.000 đồng đối với cá nhân, trên 500.000 đồng đối với tổ chức thì mới phải lập biên bản; (ii) Một cá nhân, tổ chức trong một lần bị xử phạt bất kể thực hiện mấy hành vi nếu tổng mức phạt là trên 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì phải lập biên bản; (iii) Trong một lần xử phạt, có thể có nhiều người bị xử phạt, có thể xử phạt về nhiều hành vi nhưng tổng tiền phạt trong lần xử phạt đó là trên 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì phải lập biên bản. Nếu hiểu theo các cách khác nhau như vậy, sẽ có nhiều cách áp dụng thủ tục xử phạt khác nhau, thiếu tính thống nhất mà vẫn theo quy định của pháp luật. Do vậy, tác giả đề xuất sửa đổi quy định này như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức…”.

Thứ ba, về nguyên tắc.

- Đối với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm: Nguyên tắc này bảo đảm hình thức, mức xử phạt hoàn toàn tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Tuy nhiên, do hành vi vi phạm hành chính thường được quan niệm là có mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao, trong khi thực tế, vi phạm hành chính xảy ra rất thường xuyên nên việc xử phạt vi phạm hành chính cần được tiến hành một cách đơn giản, nhanh chóng. Vì vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cách xác định mức tiền phạt là nếu không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì mức phạt tiền là mức trung bình của khung. Cho nên, ở mức độ chi tiết thì hành vi vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng nếu thuộc một khung tiền phạt thì mức phạt tiền được áp dụng là như nhau. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể, định lượng mức độ vi phạm để có mức phạt tiền phù hợp, nếu chỉ căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định mức phạt tiền là chưa phù hợp, dễ dẫn đến cào bằng khi quyết định mức tiền phạt. Tuy nhiên, để bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm, theo tác giả, cần có những khung tiền phạt trên cơ sở có định lượng cụ thể đối với hành vi và biên độ mức xử phạt của hành vi thuộc mỗi khung tiền phạt không nên quá rộng dễ dẫn đến áp dụng mức phạt tùy tiện, cảm tính.

- Đối với nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức bị xử phạt; cá nhân, tổ chức có quyền chứng minh mình không vi phạm hành chính:

Nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính có tính tất yếu vì nếu không chứng minh được vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền không thể tiến hành xử phạt. Để tránh khả năng người có thẩm quyền xử phạt tùy tiện, cảm tính theo hướng chỉ chứng minh vi phạm hành chính thì Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của người có thẩm quyền tương tự như quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định trực tiếp về quyền giải trình, chứng minh của người bị xử phạt trong xử phạt vi phạm hành chính, song mới chỉ quy định người bị xử phạt có quyền giải trình khi bị xử phạt bằng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức. Như vậy, nếu người bị xử phạt với hành vi có mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt thấp hơn mức trên hoặc không phải là bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn thì không được giải trình và thực chất cũng không có cách thức nào để chứng minh mình không vi phạm hành chính. Để bảo đảm nguyên tắc người bị xử phạt có quyền chứng minh mình không vi phạm hành chính thì cần mở rộng phạm vi quyền chứng minh cho người bị xử phạt.

- Đối với nguyên tắc đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân: Trong xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến nhất. Mức phạt tiền cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào khách thể mà hành vi xâm phạm tới, thiệt hại thực tế hành vi gây ra, công cụ, phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi, điều kiện, hoàn cảnh hành vi được thực hiện, hình thức lỗi… nhưng không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi theo nghĩa là cá nhân hay tổ chức. Bởi vậy, cần xem xét lại cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý của nguyên tắc này. Đánh giá tác động của việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế một cách khách quan, khoa học để quyết định duy trì hay bãi bỏ nguyên tắc này trong xử phạt vi phạm hành chính, nhằm tạo sự bình đẳng cho các chủ thể cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

ThS. Lê Thị Phương

Khoa Luật, Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 380), tháng 5/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: