Thứ sáu 04/07/2025 15:15
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích một số vướng mắc, bất cập về xử phạt vi phạm hành chính trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định này.

Abstract: The article focuses on analyzing a number of problems and inadequacies in sanctioning administrative violations in the 2012 Law on Handling of Administrative Violations (amended and supplemented in 2020), thereby, proposing solutions to improve the regulation.

Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (sau đây gọi là Luật Xử lý vi phạm hành chính), sau hơn 10 năm đi vào đời sống, đã trở thành một trong những công cụ pháp lý quan trọng của các cơ quan thực thi pháp luật trong công tác xử lý các hành vi vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đem đến sự thay đổi tích cực trong công tác thực thi pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, xử lý vi phạm hành chính.

Sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2020, nội dung về xử phạt hành chính được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính đã phần nào khắc phục được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền trong xử phạt vi phạm hành chính, vừa bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số nội dung cần xem xét trên cơ sở khoa học, thực tiễn, kỹ thuật lập pháp để hoàn thiện hơn, góp phần tạo tiền đề để công tác xử phạt vi phạm hành chính bảo đảm đúng các nguyên tắc, quy định của pháp luật và thống nhất, đồng bộ. Cụ thể:

Thứ nhất, về thẩm quyền.

Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, Giám đốc Công an tỉnh có thẩm quyền xử phạt như một đơn vị trực thuộc cục nghiệp vụ trong lĩnh vực an ninh trật tự. Khi vượt thẩm quyền thì trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân hoặc cục nghiệp vụ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hai cơ quan này đều từ chối ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, dẫn đến chồng chéo trong xử lý vi phạm hành chính và hành vi vi phạm hành chính có mức xử phạt cao sẽ không bị xử lý.

Bên cạnh đó, Giám đốc Công an tỉnh chỉ được xử phạt 50% mức tối đa, trong khi đó, thẩm quyền của Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh được xử phạt mức tối đa trong lĩnh vực tương ứng. Vì vậy, theo tác giả, cần quy định tăng thẩm quyền cho Giám đốc Công an tỉnh theo hướng tăng thẩm quyền được xử phạt mức tối đa. Bên cạnh đó, để tránh chồng chéo trong xử phạt vi phạm hành chính thì nên gộp khoản 5, khoản 6 Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Thực tế thời gian qua cho thấy, một số chủ thể có thẩm quyền xử phạt do nhận thức chưa đầy đủ về nguyên tắc xử phạt về mức tiền phạt nên khi áp dụng xử phạt thường đùn đẩy trách nhiệm xử phạt. Để khắc phục tình trạng chuyển hồ sơ xử lý vụ việc vi phạm hành chính không đúng quy định, theo tác giả, các cơ quan và người có thẩm quyền xử phạt cần hiểu và nắm chắc các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính để áp dụng đúng, tránh đùn đẩy công việc; việc xử phạt phải bảo đảm đúng nguyên tắc, đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và không để xảy ra tình trạng phải hủy quyết định xử phạt vi phạm hành chính vì xử phạt không đúng thẩm quyền (nếu có khiếu nại, khởi kiện xảy ra).

Thứ hai, về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính.

Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định hai thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, trong đó thủ tục không lập biên bản chỉ được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, đến 500.000 đồng đối với tổ chức. Tất cả các trường hợp còn lại đều áp dụng theo thủ tục có lập biên bản. Với quy định như vậy, tác giả nhận thấy còn có sự bất cập, cụ thể: Việc xử phạt hành vi vi phạm do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, tuy nhiên, sau đó lại quyết định không khởi tố vụ án hình sự, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án nhưng vẫn phải lập biên bản vi phạm hành chính thì khi đó, vi phạm hành chính đã xảy ra khá lâu và các cơ quan tố tụng đã có nhiều hoạt động nhằm ghi nhận, xác minh thông tin liên quan đến vi phạm đó nhưng chưa lập biên bản. Lúc này, việc lập biên bản vi phạm hành chính chủ yếu mang tính hình thức. Như vậy, theo tác giả, để bảo đảm nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đúng thủ tục theo quy định của pháp luật thì cần có quy định về trường hợp ngoại lệ, trường hợp phải lập biên bản nhưng vẫn áp dụng thủ tục không lập biên bản vi phạm hành chính, tránh việc lập biên bản chỉ là hình thức, thiếu tính thực tế.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì: “Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức…”. Trên thực tế, quy định này có thể được hiểu là: (i) Bất cứ hành vi nào có mức phạt tiền trên 250.000 đồng đối với cá nhân, trên 500.000 đồng đối với tổ chức thì mới phải lập biên bản; (ii) Một cá nhân, tổ chức trong một lần bị xử phạt bất kể thực hiện mấy hành vi nếu tổng mức phạt là trên 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì phải lập biên bản; (iii) Trong một lần xử phạt, có thể có nhiều người bị xử phạt, có thể xử phạt về nhiều hành vi nhưng tổng tiền phạt trong lần xử phạt đó là trên 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì phải lập biên bản. Nếu hiểu theo các cách khác nhau như vậy, sẽ có nhiều cách áp dụng thủ tục xử phạt khác nhau, thiếu tính thống nhất mà vẫn theo quy định của pháp luật. Do vậy, tác giả đề xuất sửa đổi quy định này như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp hành vi vi phạm bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức…”.

Thứ ba, về nguyên tắc.

- Đối với nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm: Nguyên tắc này bảo đảm hình thức, mức xử phạt hoàn toàn tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm. Tuy nhiên, do hành vi vi phạm hành chính thường được quan niệm là có mức độ nguy hiểm cho xã hội không cao, trong khi thực tế, vi phạm hành chính xảy ra rất thường xuyên nên việc xử phạt vi phạm hành chính cần được tiến hành một cách đơn giản, nhanh chóng. Vì vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định cách xác định mức tiền phạt là nếu không có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì mức phạt tiền là mức trung bình của khung. Cho nên, ở mức độ chi tiết thì hành vi vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng nếu thuộc một khung tiền phạt thì mức phạt tiền được áp dụng là như nhau. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể, định lượng mức độ vi phạm để có mức phạt tiền phù hợp, nếu chỉ căn cứ vào tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định mức phạt tiền là chưa phù hợp, dễ dẫn đến cào bằng khi quyết định mức tiền phạt. Tuy nhiên, để bảo đảm xử phạt vi phạm hành chính đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của vi phạm, theo tác giả, cần có những khung tiền phạt trên cơ sở có định lượng cụ thể đối với hành vi và biên độ mức xử phạt của hành vi thuộc mỗi khung tiền phạt không nên quá rộng dễ dẫn đến áp dụng mức phạt tùy tiện, cảm tính.

- Đối với nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức bị xử phạt; cá nhân, tổ chức có quyền chứng minh mình không vi phạm hành chính:

Nguyên tắc người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính có tính tất yếu vì nếu không chứng minh được vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền không thể tiến hành xử phạt. Để tránh khả năng người có thẩm quyền xử phạt tùy tiện, cảm tính theo hướng chỉ chứng minh vi phạm hành chính thì Luật Xử lý vi phạm hành chính cũng cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của người có thẩm quyền tương tự như quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).

Luật Xử lý vi phạm hành chính đã quy định trực tiếp về quyền giải trình, chứng minh của người bị xử phạt trong xử phạt vi phạm hành chính, song mới chỉ quy định người bị xử phạt có quyền giải trình khi bị xử phạt bằng hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức. Như vậy, nếu người bị xử phạt với hành vi có mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt thấp hơn mức trên hoặc không phải là bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn thì không được giải trình và thực chất cũng không có cách thức nào để chứng minh mình không vi phạm hành chính. Để bảo đảm nguyên tắc người bị xử phạt có quyền chứng minh mình không vi phạm hành chính thì cần mở rộng phạm vi quyền chứng minh cho người bị xử phạt.

- Đối với nguyên tắc đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân: Trong xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền là hình thức xử phạt được áp dụng phổ biến nhất. Mức phạt tiền cao hay thấp tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phụ thuộc vào khách thể mà hành vi xâm phạm tới, thiệt hại thực tế hành vi gây ra, công cụ, phương tiện sử dụng để thực hiện hành vi, điều kiện, hoàn cảnh hành vi được thực hiện, hình thức lỗi… nhưng không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi theo nghĩa là cá nhân hay tổ chức. Bởi vậy, cần xem xét lại cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn, cơ sở pháp lý của nguyên tắc này. Đánh giá tác động của việc thực hiện nguyên tắc này trên thực tế một cách khách quan, khoa học để quyết định duy trì hay bãi bỏ nguyên tắc này trong xử phạt vi phạm hành chính, nhằm tạo sự bình đẳng cho các chủ thể cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính.

ThS. Lê Thị Phương

Khoa Luật, Trường Cao đẳng Cảnh sát nhân dân I

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 380), tháng 5/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm