Chủ nhật 08/06/2025 12:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hành chính - Thực trạng và kiến nghị

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 không đưa ra định nghĩa rõ ràng về Hội thẩm nhân dân. Do đó, khái niệm về Hội thẩm nhân dân vẫn được hiểu theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Theo đó, “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án”.

1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hành chính

1.1. Khái niệm Hội thẩm nhân dân

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 không đưa ra định nghĩa rõ ràng về Hội thẩm nhân dân. Do đó, khái niệm về Hội thẩm nhân dân vẫn được hiểu theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh số 02/2002/PL-UBTVQH11 về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Theo đó, “Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án”.

Từ quy định về Hội thẩm nhân dân trên có thể thấy, Hội thẩm nhân dân là chức danh chỉ những người cùng tham gia với Thẩm phán trong Hội đồng xét xử ở Toà án cấp sơ thẩm khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Nhưng khác với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là những người dân bình thường đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Điều 85 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014, họ không phải là người được đào tạo về nghiệp vụ xét xử và không nhất thiết phải có trình độ cử nhân luật. Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp.


1.2. Đặc điểm của Hội thẩm nhân dân

Dựa vào khái niệm đã nêu về Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng, có thể thể thấy, Hội thẩm nhân dân có những đặc điểm như sau: (i) Hội thẩm nhân dân là những người được bầu theo quy định của pháp luật; (ii) Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân; (iii) Hội thẩm nhân dân tham gia giải quyết vụ án hành chính với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử và chỉ tham gia ở cấp sơ thẩm; (iv) Khi tham gia xét xử, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.

1.3. Vai trò của Hội thẩm nhân dân trong tố tụng hành chính

- Chế định Hội thẩm nhân dân thể hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc” với biểu hiện cơ bản là sự thu hút đông đảo nhân dân lao động tham gia vào công việc của Nhà nước, thể hiện rõ nguyên tắc Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân của nước ta.

- Hội thẩm nhân dân có vai trò là cầu nối, là sợi dây để kéo gần khoảng cách giữa pháp luật và đời sống trong hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án khi xét xử.

- Vai trò của Hội thẩm nhân dân không chỉ dừng lại ở việc tham gia hoạt động xét xử của Tòa án mà còn có ý nghĩa quan trọng trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

- Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử còn có vai trò phản biện mang tính chất đối trọng đối với các quyết định của Thẩm phán trong các vấn đề mâu thuẫn.

2. Thực trạng về Hội thẩm nhân dân

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân

Thứ nhất, sự chênh lệch về trình độ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân.

Điều 67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định rõ về tiêu chuẩn cần có để trở thành Thẩm phán. Cụ thể, Thẩm phán phải có trình độ từ cử nhân luật trở lên, được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật... Không những vậy, tại Điều 68 Luật này còn quy định thêm về các ngạch Thẩm phán và điều kiện để được nâng ngạch. Những quy định này cho thấy, pháp luật đã có sự quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, trình độ của Thẩm phán. Trong khi đó, đối với Hội thẩm nhân dân, chỉ cần thỏa mãn các tiêu chuẩn quy định tại Điều 85 của Luật là có thể được bầu làm Hội thẩm nhân dân. Có thể thấy, các tiêu chuẩn này hoàn toàn mang tính định lượng, không rõ ràng và không cụ thể nên rất dễ bị áp dụng một cách tùy nghi.

Từ sự khác biệt về tiêu chuẩn kiến thức pháp luật kể trên có thể thấy, sẽ có sự chênh lệch về trình độ kiến thức pháp luật giữa các thành viên của Hội đồng xét xử. Trong khi Thẩm phán luôn được bảo đảm về nghiệp vụ xét xử, trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn được quy định tại Điều 67 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, quan trọng nhất là phải “có trình độ cử nhân luật trở lên” thì tiêu chuẩn về “có kiến thức pháp luật” dành cho Hội thẩm nhân dân lại không có quy định hoặc văn bản hướng dẫn cụ thể. Từ đó đặt ra câu hỏi về khả năng cập nhật kiến thức pháp luật, hiểu biết xã hội của Hội thẩm nhân dân ở từng địa phương, từng khu vực.

Sự chênh lệch lớn về kiến thức pháp luật giữa Hội thẩm và Thẩm phán dẫn đến tính độc lập của Hội thẩm nhân dân khi đưa ra phán quyết về vụ án hành chính bị ảnh hưởng nhiều. Tiêu chuẩn “có kiến thức pháp luật” đã được đặt ra từ Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2011) tức đã trải qua 18 năm. Suốt gần hai thập kỷ qua, nước ta không những ngày càng nâng cao trình độ dân trí, mức độ hiểu biết pháp luật đối với toàn thể nhân dân mà còn cải thiện và phát triển các vấn đề về tư pháp, lập pháp hướng đến Nhà nước pháp quyền theo đúng nghĩa.

Thứ hai, Hội thẩm nhân dân có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án chưa hợp lý.

Tại Điều 149 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có quy định rõ ràng về thời hạn mở phiên tòa: “Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn mở phiên tòa có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày”.

Như vậy, khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử (chưa kể các trường hợp gia hạn thời hạn xét xử), nghĩa là sau khi có quyết định phân công của Chánh án Tòa án đó và Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội thẩm nhân dân chính thức trở thành thành viên của Hội đồng xét xử. Theo sự sắp xếp, bố trí của thư ký, Hội thẩm nhân dân được tham gia đọc hồ sơ, nghiên cứu xét xử vụ án đó. Trong thời hạn ít nhất 07 ngày làm việc trước khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa có trách nghiệm gửi giấy mời Hội thẩm nhân dân đến trụ sở Tòa án để nghiên cứu hồ sơ và trao đổi về nghiệp vụ xét xử đối với vụ án đó[1]. Xét riêng trong tố tụng hành chính, thời gian nghiên cứu hồ sơ ít cộng với vốn kiến thức pháp luật nền tảng bị hạn chế, đi kèm sự khác biệt về đối tượng xét xử của vụ án hành chính so với các vụ án dân sự[2], hình sự, khiến Hội thẩm nhân dân khó có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có thể đưa ra quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là các vụ án hành chính.

Thứ ba, về quy chế quản lý, kiểm tra, đánh giá Hội thẩm nhân dân.

Đây là một lỗ hổng trong quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân. Theo quy định hiện nay, Tòa án chỉ quản lý Hội thẩm nhân dân trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và tham gia xét xử. Ngoài thời gian đó thì họ sinh hoạt tại cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống.

Thứ tư, về mức lương của Hội thẩm nhân dân.

Ngoài chế độ trang phục, Hội thẩm chỉ được hưởng chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử theo Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 về chế độ bồi dưỡng đối với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, Hội thẩm nhân dân không được hưởng chế độ phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề giống như Thẩm phán. Với mức lương này chưa khuyến khích được sự nhiệt tình của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử.

2.2. Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân

Thứ nhất, thực tiễn cho thấy vẫn còn tồn tại bất cập về trình độ pháp luật của Hội thẩm nhân dân.

Nhân sự để lựa chọn Hội thẩm nhân dân vào danh sách hiện nay hầu hết là từ cán bộ, công chức trong các lĩnh vực khác nhau của từng địa phương nên hoạt động của Hội thẩm nhân dân chủ yếu còn mang tính chất kiêm nhiệm. Vì thế, Hội thẩm nhân dân phần lớn chỉ có thể hiểu biết một phần các vấn đề pháp lý của lĩnh vực mà họ làm việc và khó có thời gian để nghiên cứu sâu về các lĩnh vực khác. Trong khi đối với các vụ án hành chính thì quy định trong việc quản lý nhà nước đối với từng lĩnh vực khác nhau cũng có điểm khác biệt nhất định. Khác với các vụ án hình sự hay dân sự, Hội đồng xét xử phải lắng nghe những ý kiến, quan điểm của nhân dân, góc nhìn xã hội đối với vụ án được thể hiện thông qua Hội thẩm nhân dân thì bởi những đặc thù nhất định của lĩnh vực hành chính nên khi xét xử các vụ án hành chính, Hội đồng xét xử chỉ xem xét tính hợp pháp tức tính đúng sai của các quyết định hành chính, hành vi hành chính cho nên việc Hội thẩm nhân dân chỉ có “hiểu biết về pháp luật” mà không có thước đo cho sự hiểu biết về pháp luật sẽ có nguy cơ dẫn đến hiểu biết của Hội thẩm nhân dân về các quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý hành chính nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung sẽ còn nhiều hạn chế.

Thứ hai, về trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân.

Hội thẩm làm việc kiêm nhiệm nên thực tế ở vai trò là Hội thẩm nhân dân họ sẽ không phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính. Do đó, Hội thẩm dù có hoàn thành chưa tốt nhiệm vụ của mình thì cũng không ảnh hưởng đến việc xét nâng lương, bổ nhiệm chức danh của công việc chính trong đó có những đánh giá thi đua, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ, công nhân, viên chức tại cơ quan trực tiếp quản lý họ. Việc không phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính đối với những bản án bị Tòa phúc thẩm huỷ án hoặc sửa án liệu có công bằng với Thẩm phán khi mà quyết định đều do Hội đồng xét xử biểu quyết. Chính vì những yếu tố ràng buộc không rõ ràng giữa thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn của việc truy cứu trách nhiệm nên đã dẫn tới một bất cập trong thực tiễn chính là tinh thần trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân chưa được phát huy một cách tối đa.

Thứ ba, về công tác tập huấn Hội thẩm nhân dân chưa được chú trọng thực hiện.

Về công tác tập huấn Hội thẩm nhân dân có quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Tuy nhiên, thực tế việc tập huấn của Tòa án nhân dân dành cho Hội thẩm nhân dân vẫn còn hạn chế là mang tính hình thức, chưa mang tính nghĩa vụ bắt buộc dẫn đến tình trạng số lượng Hội thẩm tham gia hàng năm không đầy đủ do bận công tác, công tác tập huấn không truyền tải được hết những yêu cầu mục đích tập huấn đặt ra. Do đó, chất lượng của công tác tập huấn hàng năm chưa đạt hiệu quả ở mức cao nhất và chưa đảm bảo được trình độ, kỹ năng của Hội thẩm nhân dân.

3. Kiến nghị nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân

3.1. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, về tiêu chuẩn lựa chọn Hội thẩm nhân dân.

Theo tác giả, cần sửa đổi các quy định của pháp luật theo hướng nâng cao tiêu chuẩn về kiến thức pháp luật đối với Hội thẩm nhân dân. Từ “có kiến thức pháp luật” như quy định tại khoản 2 Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân như hiện nay thành “có trình độ trung cấp luật trở lên” hoặc “đã hoàn thành khóa đào tạo nghiệp vụ tập trung có thời gian từ 03 đến 06 tháng”. Ưu điểm của kiến nghị này sẽ là một bước tiến trong hoạt động tư pháp bởi lẽ hướng đến một nền tư pháp vững chắc với sự tham gia của những chủ thể có kiến thức pháp lý, có đủ khả năng để xem xét các vụ án, vụ việc vừa thấu tình vừa đạt lý.

Thứ hai, kiến nghị về việc cải thiện các cơ chế và chính sách đối với Hội thẩm nhân dân.

Cơ chế đãi ngộ và chính sách mà các Tòa án nói riêng và Nhà nước nói chung dành cho Hội thẩm nhân dân là chưa thỏa đáng và hầu như là không có khả năng khuyến khích Hội thẩm tích cực tham gia công tác xét xử của Tòa án. Do vậy, theo tác giả nên tăng cường thêm một số cơ chế và chính sách dành cho Hội thẩm nhân dân. Cụ thể, cần có cơ chế phụ cấp, khen thưởng và đánh giá đối với hoạt động của Hội thẩm nhân dân. Về cơ chế phụ cấp, các quy định thực trạng pháp luật cho thấy trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong quá trình hoạt động là tương đương với trách nhiệm của Thẩm phán[3]. Việc cải thiện những chính sách và bổ sung thêm cơ chế để Hội thẩm nhân dân có thể hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ của mình, đảm bảo rõ ràng sự tham gia của Nhân dân trong hoạt động xét xử và tránh việc “hình thức hóa” vị trí của Hội thẩm trong Hội đồng xét xử khiến cho vai trò của Hội thẩm nhân dân bị xem nhẹ như thời gian qua.

Thứ ba, hạn chế sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong một số loại vụ án, vụ việc nhất định.

Tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu pháp luật các nước mà điển hình là Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Pháp. Nhìn chung, tác giả nhận thấy các quốc gia này đều có một một điểm chung là một mặt nâng cao vai trò của nhân dân trong hoạt động xét xử thông qua việc bắt buộc có Hội thẩm nhân dân hay Bồi thẩm đoàn tham gia vào các vụ án nghiêm trọng và có sức ảnh hưởng lớn với xã hội, mặt khác lại giới hạn sự tham gia của họ trong một số loại vụ án, vụ việc nhất định. Điều này hoàn toàn không hề mâu thuẫn với nhau mà ngược lại việc hạn chế sự tham gia của Hội thẩm nhân dân vào một số loại vụ án, vụ việc nhất định còn giúp cho Hội thẩm có thể hoạt động một cách hiệu quả và ít hao tốn nhiều thời gian, sức người, sức của của quốc gia bởi lẽ Hội thẩm nhân dân có thể phát huy hết vai trò của mình trong những vụ án, vụ việc thật sự cần tiếng nói của họ thay vì có mặt trong tất cả các loại vụ án, vụ việc bất kể vai trò của họ là cần thiết hay là không.

Cụ thể, Hội thẩm nhân dân chỉ cần bắt buộc phải có mặt tại các vụ án, vụ việc mang tính xã hội cao, các vụ án nghiêm trọng và đồng thời là những vụ án thu hút sự chú ý của dư luận. Đây là những vụ án rất cần tiếng nói của nhân dân trong Hội đồng xét xử để Thẩm phán, Chủ tọa phiên tòa có cái nhìn toàn diện hơn trong việc đưa ra các phán quyết không chỉ đúng với tinh thần pháp luật mà còn đúng với nguyện vọng của số đông người dân.

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật

Thứ nhất, để nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật chính là hình thành cơ chế kiểm tra kiến thức pháp luật của Hội thẩm nhân dân. Khi kết thúc những đợt tập huấn nghiệp vụ Hội thẩm nhân dân, Tòa án nhân dân các tỉnh cần tổ chức thêm các buổi kiểm tra nhằm mục đích đánh giá kỹ năng nghiệp vụ và kiến thức chuyên môn của Hội thẩm nhân dân. Việc thực hiện kiểm tra sẽ tạo điều kiện để chúng ta biết được rằng khả năng của các vị Hội thẩm nhân dân đã thực sự đủ để tham gia vào công tác xét xử hay chưa, như vậy thì các buổi tập huấn mới thực sự đạt được hiệu quả và sau cùng là nâng cao chất lượng xét xử của Hội thẩm nhân nhân. Đi đôi với việc hình thành cơ chế kiểm tra kiến thức pháp luật là phải hình thành thêm những quy định mới về thủ tục, hình thức nội dung kiểm tra cũng như việc bổ sung nguồn nhân lực, điều kiện vật chất bao gồm cơ sở tổ chức và tài liệu kiểm tra cho công tác mới này, đồng thời cũng phải quy định thêm về việc tạo điều kiện về mặt thời gian và không gian cho các vị Hội thẩm nhân dân tham gia buổi kiểm tra. Ngoài ra, để bảo đảm cho công tác kiểm tra diễn ra công tâm, minh bạch và đạt được hiệu quả thì phải có chế tài đối với những hành vi vi phạm quy chế kiểm tra cũng như trốn tránh việc tham gia kiểm tra vì lý do công vụ.

Hai là, nên hướng đến lựa chọn các đối tượng vào vị trí Hội thẩm nhân dân cần đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí cả về mặt chuyên môn và về xã hội. Bên cạnh việc đáp ứng được kỹ năng nghiệp vụ và kiến thức trong lĩnh vực tư pháp thì pháp luật cũng nên có những quy định chặt chẽ hơn trong việc lựa chọn những Hội thẩm nhân dân là cán bộ đã về hưu vì những người đang công tác có thể cập nhật được những tâm lý của người dân, những hiện tượng đang diễn ra trong xã hội một cách thường xuyên và chính xác hơn.

Bà là, nâng cao mối quan hệ giữa Hội thẩm nhân dân với cơ quan Hội thẩm đang công tác và giữa cơ quan này với Toà án mà Hội thẩm tham gia thực hiện công tác xét xử. Để Hội thẩm nhân dân có thời gian nghiên cứu hồ sơ nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác xét xử vừa bảo đảm được công việc ở cơ quan, tổ chức nơi Hội thẩm công tác chính. Theo tác giả, Tòa án nhân dân nơi Hội thẩm nhân dân đang thực hiện nhiệm vụ nên tăng cường mối quan hệ, thông tin đối với cơ quan, tổ chức nơi Hội thẩm nhân dân làm việc. Theo đó, Tòa án nên hỗ trợ để cơ quan này có thể nắm bắt đầy đủ, kịp thời thông tin và lịch phân công xét xử của Hội thẩm để từ đó có những hỗ trợ phù hợp với từng chức danh, vai trò nghề nghiệp của Hội thẩm trong cơ quan hoặc kịp thời tìm kiếm được nhân sự để thay thế. Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức nơi Hội thẩm làm việc có thể quy định mỗi tháng Hội thẩm có thể có bao nhiêu ngày không cần đến cơ quan để có thể chuyên tâm cho công việc nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử và giảm số lượng công việc giao vào đầu tháng cho Hội thẩm tùy thuộc vào lịch xét xử của tháng.

ThS. Nguyễn Thanh Quyên
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh


[1] Điều 21 Nghị quyết liên tịch số 05/2005/NQLT-TANDTC-BNV-UBTWMTTQVN ngày 05/12/2005 về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ - Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

[2] Mục 1 Chương III Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Khoản 6 Điều 76 và khoản 8 Điều 89 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm