Thứ sáu 06/06/2025 01:28
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Khái niệm thương nhân trong mối quan hệ với một số khái niệm thuộc lĩnh vực thương mại

Bài viết đánh giá bất cập của quy định pháp luật hiện hành về khái niệm thương nhân trong mối quan hệ với một số khái niệm khác (như hoạt động thương mại; cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh; doanh nghiệp), từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về những khái niệm này.

Khái niệm thương nhân có ý nghĩa rất quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật kinh doanh, thương mại. Bởi vì, thương nhân là chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại. Tuy nhiên, khái niệm thương nhân được xây dựng trong Luật Thương mại năm 2005 chưa thực sự phù hợp về kỹ thuật lập pháp nên dẫn đến những cách hiểu khác nhau. Ngoài ra, hiện nay còn một số khái niệm có liên quan trực tiếp hoặc có nhiều điểm dễ gây nhầm lẫn với khái niệm thương nhân (như khái niệm hoạt động thương mại; cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh; doanh nghiệp). Do đó, việc nghiên cứu chỉ ra những điểm thống nhất trong các quy định của pháp luật về khái niệm thương nhân đặt trong mối quan hệ với một số khái niệm khác là cần thiết.

1. Khái niệm thương nhân

Trong pháp luật thương mại của các quốc gia trên thế giới có hai cách thức chủ yếu khi định nghĩa thương nhân, đó là: Định nghĩa theo bản chất của hành vi mà thương nhân thực hiện (hành vi thương mại); định nghĩa theo bản chất của hành vi mà thương nhân thực hiện (hành vi thương mại) và theo hình thức (đăng ký thành lập)[1]. Ở Việt Nam, khái niệm thương nhân được quy định chính thức trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005, cụ thể: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, thương nhân gồm hai nhóm: (i) Thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp. Theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020, tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh. Do đó, thương nhân là tổ chức kinh tế thì chắc chắn có hoạt động thương mại; (ii) Thương nhân là cá nhân phải có hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Như vậy, cách định nghĩa thương nhân trong pháp luật Việt Nam được quy định theo hướng khẳng định bản chất của hành vi mà thương nhân thực hiện và đáp ứng điều kiện đăng ký thành lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Có hoạt động thương mại được xác định là bản chất cố hữu của thương nhân. Thậm chí, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới chỉ cần xác định thương nhân thông qua dấu hiệu có hoạt động thương mại. Tất nhiên, chúng ta phải hiểu rằng hoạt động thương mại đó do thương nhân thực hiện phải độc lập, nhân danh chính mình và vì lợi ích của bản thân mình[2]. Ví dụ: Công ty cổ phần A là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp và có các hoạt động thương mại nhân danh chính Công ty và vì lợi ích của chính Công ty. Tuy nhiên, Công ty cổ phần A có thuê ông Nguyễn Văn B làm giám đốc và thay mặt công ty kí các hợp đồng kinh doanh, thương mại với đối tác. Mặc dù, Giám đốc Nguyễn Văn B có thực hiện các hoạt động thương mại nhưng không có tính độc lập, nhân danh chính mình nên Giám đốc Nguyễn Văn B không phải là thương nhân. Bên cạnh đó, thương nhân phải coi hoạt động thương mại mang tính chất nghề nghiệp thường xuyên. Tiêu chí này khó để lượng hóa nhưng thông thường để xác định một công việc ai đó thực hiện có mang tính nghề nghiệp thường xuyên hay không phụ thuộc vào một số yếu tố sau: Công việc đó phải được thực hiện liên tục (hàng ngày, hàng tuần); công việc đó mang lại nguồn thu nhập chính cho chủ thể thực hiện; chủ thể có trình độ chuyên môn về công việc đó.

- Dấu hiệu đăng ký thành lập không bắt buộc trong pháp luật của các quốc gia. Đăng ký thành lập để pháp luật công nhận sự tồn tại của thương nhân. Dưới góc độ quản lý nhà nước, việc đăng ký thành lập còn giúp nhà nước xác định được số lượng và kiểm soát được hoạt động của thương nhân, hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật do thương nhân thực hiện. Pháp luật thương mại của Việt Nam (từ Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005) đều xác định dấu hiệu “đăng ký kinh doanh” khi định nghĩa về thương nhân.

2. Mối quan hệ giữa khái niệm thương nhân và một số khái niệm khác

2.1. Khái niệm thương nhân và khái niệm hoạt động thương mại

Khái niệm hoạt động thương mại có quan hệ mật thiết với khái niệm thương nhân, hay nói cách khác, khái niệm thương nhân luôn gắn liền với khái niệm hoạt động thương mại. Bởi vì như đã phân tích, xét về bản chất thương nhân phải hoạt động thương mại. Tuy nhiên, khái niệm hoạt động thương mại đang xây dựng không phù hợp nên chưa phản ánh hết được bản chất của thương nhân. Theo Từ điển tiếng Việt: “Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội”[3] và “hành vi là toàn bộ nói chung những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định”[4]. Theo cách định nghĩa này, rõ ràng nội hàm hai khái niệm “hoạt động” và “hành vi” là khác nhau. Hành vi có tính cụ thể hơn so với hoạt động, hay nói cách khác, hành vi được xem xét trong những hoàn cảnh cụ thể còn hoạt động có thể là chuỗi các hành vi và hoạt động cũng có ý chỉ một sự vật, hiện tượng vẫn còn tồn tại. Hành vi có thể xuất phát từ ý chí chủ quan một phía của chủ thể mà không nhất thiết phải có quan hệ qua lại với chủ thể đối ứng. Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng thừa nhận “hành vi pháp lý đơn phương” là một trong căn cứ xác lập quyền dân sự (khoản 2 Điều 8). Trong Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội khi phân tích về hành vi vi phạm pháp luật đã khẳng định, hành vi vi phạm pháp luật có hai dạng là hành động (làm những việc mà pháp luật cấm) và không hành động (không làm những việc mà pháp luật yêu cầu)[5]. Chúng ta có thể vận dụng để khẳng định hành vi thương mại (hành vi hợp pháp) cũng bao gồm hành động (làm những việc mà pháp luật yêu cầu, cho phép) và không hành động (không làm những việc mà pháp luật cấm). Do đó, tác giả cho rằng, việc Luật Thương mại năm 2005 sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại” mà không phải là “hành vi thương mại” là chưa phù hợp.

2.2. Khái niệm thương nhân và khái niệm cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh

Thực chất, pháp luật của các quốc gia đều khẳng định thương nhân phải thực hiện hành vi thương mại còn vấn đề có đăng ký thành lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không phụ thuộc vào quan điểm làm luật của từng quốc gia. Ở Việt Nam, đăng ký thành lập với cơ quan nhà nước có thẩm quyền là điều kiện bắt buộc của thương nhân. Bởi vì, nền kinh tế của Việt Nam đang phát triển, các chủ thể có hoạt động thương mại đa dạng (bao gồm cả những chủ thể có hoạt động thương mại ở phạm vi rộng, doanh thu và lợi nhuận lớn và cả những chủ thể hoạt động thương mại ở phạm vi hẹp, doanh thu và lợi nhuận nhỏ) nên việc đặt ra yêu cầu về đăng ký thành lập là một trong những cơ sở để phân biệt hai nhóm chủ thể này. Cụ thể, Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ về hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh (Nghị định số 39/2007/NĐ-CP) xác định cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh. Những cá nhân thường có hoạt động thương mại nhỏ lẻ như: Buôn bán rong (buôn bán dạo); buôn bán vặt; bán quà vặt; buôn chuyến; thực hiện các dịch vụ: Đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định. Mặc dù, những chủ thể này cũng có hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh và không phải thương nhân.

Tại Điều 7 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật”. Tác giả cho rằng, không cần thiết phải xác định trách nhiệm của thương nhân khi chưa đăng ký kinh doanh bởi điều đó mâu thuẫn với cách định nghĩa về thương nhân. Rõ ràng, chủ thể mà chưa thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh thì không thể gọi là thương nhân. Hơn nữa, Luật Thương mại năm 2005 (khoản 3 Điều 2), Nghị định số 39/2007/NĐ-CP (Điều 4) đã xác định trách nhiệm của chủ thể hoạt động thương mại mà không có đăng ký kinh doanh.

2.3. Khái niệm thương nhân và khái niệm doanh nghiệp

Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp được quy định chính thức trong Luật Doanh nghiệp năm 2020. Cụ thể: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (khoản 10 Điều 4). Các loại hình doanh nghiệp gồm có: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh. Trong số các doanh nghiệp kể trên chỉ có doanh nghiệp tư nhân là không có tư cách pháp nhân.

Doanh nghiệp tư nhân có những đặc điểm pháp lý cơ bản như: (i) Do một cá nhân làm chủ sở hữu; (ii) Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; (iii) Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân; (iv) Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành chứng khoán để huy động vốn. Xem xét các đặc điểm pháp lý này, chúng ta thấy rằng tư cách chủ thể của doanh nghiệp tư nhân không độc lập với tư cách chủ thể của chủ sở hữu doanh nghiệp. Thậm chí, nhiều quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền với hoạt động của doanh nghiệp tư nhân, ví dụ: Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 190).

Thế nhưng, chính Luật Doanh nghiệp năm 2020 cũng có một số quy định khẳng định chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ là người đại diện cho doanh nghiệp tư nhân. Thay vì quy định “chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Toà án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp” như Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Điều 185) thì Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định “chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Toà án, đại diện cho doanh nghiệp tư nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật” (Điều 190). Do đó, các quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 không giúp chúng ta xác định được doanh nghiệp tư nhân là thương nhân là tổ chức hay thương nhân là cá nhân[6].

3. Hoàn thiện quy định của pháp luật về khái niệm thương nhân trong mối quan hệ với một số khái niệm khác

Thứ nhất, hoàn thiện khái niệm thương nhân về kỹ thuật lập pháp. Theo đó, trong khái niệm thương nhân, cụm từ “hoạt động thương mại” cần được thay thế bằng cụm từ “hành vi thương mại”. Việc gắn cụm từ hành vi thương mại vào trong khái niệm thương nhân như vậy giúp phản ánh đúng bản chất của thương nhân. Đồng thời, trong các quy định khác, Luật Thương mại năm 2005 không sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại” mà thay bằng thuật ngữ “hành vi thương mại” để đảm bảo tính thống nhất trong các quy phạm pháp luật.

Thứ hai, sửa đổi khái niệm thương nhân theo hướng xác định thương nhân bao gồm cá nhân và pháp nhân. Bởi vì, việc sử dụng thuật ngữ “tổ chức kinh tế” đã gây khó khăn cho việc xác định tư cách thương nhân của doanh nghiệp tư nhân. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tại khoản 1 Điều 101 như sau: “Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết”. Có nghĩa rằng, tổ chức không có tư cách pháp nhân không được quyền đứng tên là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Do đó, nếu Luật Thương mại năm 2005 xác định thương nhân bao gồm cá nhân và pháp nhân thì đương nhiên doanh nghiệp tư nhân không phải thương nhân mà chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân mới là thương nhân.

Ngoài ra, trong khoảng thời gian dài, việc pháp luật quy định về doanh nghiệp tư nhân (và một số tổ chức không có tư cách pháp nhân khác như hộ kinh doanh, tổ hợp tác) vì những đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta phải thừa nhận rằng, doanh nghiệp tư nhân và một số tổ chức không có tư cách pháp nhân đã có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian qua. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, sau hơn 30 năm đổi mới, việc thừa nhận doanh nghiệp tư nhân (và các tổ chức không có tư cách pháp nhân khác) không còn phù hợp với tình hình mới. Do đó, pháp luật cần được thay đổi theo hướng chỉ thừa nhận thương nhân là pháp nhân và thương nhân là cá nhân, đồng thời xây dựng quy chế pháp lý cho thương nhân là cá nhân độc lập với Luật Công ty (tách doanh nghiệp tư nhân ra khỏi Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp đổi tên thành Luật Công ty).

Thứ ba, bãi bỏ quy định tại Điều 7 Luật Thương mại năm 2005 vì trong định nghĩa thương nhân đã khẳng định thương nhân phải đăng ký thành lập. Việc đưa quy định tại Điều 7 của Luật Thương mại năm 2005 bị thừa, không đúng quan điểm về thương nhân và mâu thuẫn với quy định tại Nghị định số 39/2007/NĐ-CP. Việc bãi bỏ Điều 7 Luật Thương mại năm 2005 cũng góp phần tạo nên cách hiểu đúng về khái niệm thương nhân và chủ thể có hành vi thương mại độc lập, thường xuyên không đăng ký kinh doanh.

4. Kết luận

Bài viết đã chỉ ra những điểm bất cập trong khái niệm thương nhân cả về kỹ thuật lập pháp và về việc xác định các loại thương nhân. Đồng thời, bài viết chỉ ra được sự bất cập của khái niệm thương nhân trong mối quan hệ với các khái niệm khác như: Khái niệm hoạt động thương mại; khái niệm cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh; khái niệm doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về các nội dung này, cụ thể: (i) Thay cụm từ “hoạt động thương mại” bằng cụm từ “hành vi thương mại”. (ii) Sửa đổi khái niệm thương nhân theo hướng xác định thương bao gồm cá nhân và pháp nhân. Đồng thời, Nhà nước nên nghiên cứu xây dựng văn bản độc lập về quy chế pháp lý đối với thương nhân là cá nhân. (iii) Bãi bỏ quy định tại Điều 7 Luật Thương mại năm 2005./.

Luyện Thị Thùy Nhung

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

[1]. PGS.TS. Ngô Huy Cương, Giáo trình Luật thương mại phần chung và thương nhân, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 66 - 69.

[2]. PGS. Nguyễn Viết Tý, TS. Nguyễn Thị Dung, Giáo trình Luật thương mại 1, Nxb. Tư pháp, 2017, tr. 62.

[3]. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 452.

[4]. Viện Ngôn ngữ học (2004), tlđd, tr. 423.

[5]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, tr. 425.

[6]. Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế - tập 1: Luật Doanh nghiệp, Tình huống - Phân tích - Bình luận, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006, tr. 45 - 46.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 403), tháng 4/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Đây là một trong những nội dung thảo luận được đưa ra tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Nghị quyết của Quốc hội về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh chủ trì ngày 11/4/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm