Thứ năm 13/11/2025 23:44
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

Tóm tắt: Bài viết nêu lên những hạn chế, bất cập trong quá trình thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Tóm tắt: Bài viết nêu lên những hạn chế, bất cập trong quá trình thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Abstract: The article highlights the limitations and shortcomings in the implementation of the Law on Handling of Administrative Violations of 2012, and from that makes recommendations to improve the law on handling of administrative violations.

1. Một số hạn chế, vướng mắc trong việc thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012

1.1. Một số quy định trong Luật còn có những cách hiểu khác nhau, mang tính định tính, chưa được giải thích từ ngữ, dẫn đến khó khăn cho cơ quan, tổ chức, người thi hành luật và cơ quan, người có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật hành chính, cụ thể: Trình độ lạc hậu (khoản 7 Điều 9); có quy mô lớn và trị giá hàng hóa lớn (điểm l khoản 1 Điều 10); vi phạm hành chính nghiêm trọng (Điều 26); vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp (khoản 1 Điều 66); hành vi “trốn tránh” (khoản 1 Điều 6; điểm k khoản 1 Điều 10; khoản 12 Điều 12; khoản 2 Điều 58; Điều 70; khoản 2 Điều 74; khoản 3 Điều 108; khoản 1 Điều 130); hành vi “trì hoãn” (khoản 12 Điều 12; khoản 2 Điều 74; khoản 3 Điều 129); hành vi “côn đồ hung hãn” (khoản 2 Điều 118); gây hậu quả lớn và gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội (khoản 1 Điều 72); tài sản khác (khoản 2 Điều 16; khoản 1 Điều 82; khoản 2 Điều 86).

1.2. Về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính

Tại điểm b khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định “vi phạm hành chính đã kết thúc”; hoặc “vi phạm hành chính đang được thực hiện”, nhưng cách xác định thời điểm kết thúc hành vi vi phạm hành chính để từ đó xác định hành vi nào “đã kết thúc”, hành vi nào “đang được thực hiện” thì chưa có văn bản nào hướng dẫn. Do vậy, đang có nhiều cách hiểu khác nhau về quy định của pháp luật khi áp dụng trên thực tế.

1.3. Về giao quyền cho cấp phó tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả

Chương II Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, các điều luật trong chương này đều quy định về 03 hình thức xử phạt: Mức tiền phạt; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Theo đó những người được quy định trong Luật có thẩm quyền áp dụng cả 03 hình thức xử phạt này để xử phạt người có vi phạm hành chính. Tuy nhiên, về giao quyền xử phạt giữa cấp trưởng và cấp phó tại khoản 3 Điều 54 quy định: “Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm về quyết định xử phạt vi phạm hành chính của mình trước cấp trưởng và trước pháp luật”. Với quy định này, thực tiễn thi hành Luật đã có những cách hiểu khác nhau và áp dụng khác nhau về giao quyền xử phạt cho cấp phó. Có cơ quan đã áp dụng cấp phó chỉ được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, không được giao thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả; có cơ quan đã áp dụng khi cấp trưởng giao quyền xử phạt hành chính cho cấp phó, thì cấp phó được thực hiện đầy đủ quyền như cấp trưởng.

1.4. Một số quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 cần tiếp tục hướng dẫn thi hành

Khoản 3 Điều 18 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị nếu phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót thì phải sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới. Quy định này là cần thiết để khắc phục những quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định này trong thực tế đang gặp những khó khăn vướng mắc, đó là: (i) Chưa có hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót; (ii) Trường hợp quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót đã gây hậu quả, nếu sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới thì giải quyết hậu quả này như thế nào; (iii) Về phạm vi xem xét để xử lý quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót, trường hợp nội dung quyết định xử phạt đúng nhưng trình tự, thủ tục ban hành có sai sót thì xử lý như thế nào.

1.5. Thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của người có thẩm quyền xử phạt hành chính

Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của người có thẩm quyền được quy định từ Điều 38 đến Điều 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, trong đó có quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Theo quy định của Luật thì trong từng lĩnh vực, một số chức danh thuộc cơ quan cấp dưới bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền, chỉ có người có chức danh cao nhất trong mỗi lĩnh vực không bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền. Theo tác giả, quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền là không phù hợp. Nhiều vụ việc xử phạt vi phạm hành chính có tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu có giá trị vượt quá mức tiền phạt được quy định, nên đã không thể tịch thu vì vượt quá thẩm quyền xử phạt. Trong trường hợp này có nơi đã chuyển cả vụ việc vi phạm hành chính có tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu có giá trị vượt quá mức tiền phạt lên cơ quan cấp trên có thẩm quyền xử lý, nhưng cũng có nơi cơ quan cấp dưới xử phạt hành chính theo thẩm quyền, còn về tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính lại chuyển lên cấp trên để quyết định tịch thu. Tình trạng chuyển việc vi phạm hành chính của cấp dưới lên cơ quan cấp trên giải quyết sẽ không bảo đảm tính kịp thời, nhanh chóng trong việc xử phạt vi phạm hành chính.

1.6. Về thẩm quyền của Bộ đội biên phòng

Theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 40; điểm đ khoản 4 Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thẩm quyền của Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả khi xử phạt vi phạm hành chính. Nhưng cả hai chức danh này đều không được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm d khoản 1 Điều 28 “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện”. Trên thực tế ở khu vực biên giới thường xảy ra các hành vi vi phạm của người, phương tiện nước ngoài, nhất là phương tiện chở hàng tạm nhập, tái xuất. Khi xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền trên, hai chức danh này không được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện, đã dẫn đến những khó khăn trong công tác xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng Bộ đội biên phòng.

1.7. Về thẩm quyền xử phạt hành chính của Công an nhân dân

Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính của Công an nhân dân, trong đó có quy định cụ thể thẩm quyền xử phạt hành chính của các chức danh thuộc Bộ Công an. Vừa qua, theo yêu cầu thu gọn đầu mối các cơ quan nhà nước, tổ chức bộ máy của các đơn vị thuộc Bộ Công an đã được tổ chức lại. Do đó, đã có sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức nội bộ của các đơn vị thuộc Bộ Công an, một số chức danh quy định trong Điều 39 đã thay đổi. Mặc dù, Điều 53 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Trường hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên gọi thì chức danh đó có thẩm quyền xử phạt”. Tuy nhiên, việc thay đổi tổ chức bộ máy của các đơn vị thuộc Bộ Công an không phải đơn thuần chỉ thay đổi tên gọi hiện có, mà thay đổi cả về tổ chức, dẫn đến những khó khăn, vướng mắc về thẩm quyền xử phạt trong thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với những đơn vị này.

1.8. Thời gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính

Tại khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định, trường hợp không thể áp dụng được căn cứ để xác định giá trị tang vật vi phạm hành chính làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt thì người có thẩm quyền đang giải quyết vụ việc có thể ra quyết định tạm giữ tang vật vi phạm và thành lập Hội đồng định giá. Thời gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị là không quá 24 giờ và nếu cần thiết có thể kéo dài thêm nhưng không được quá 24 giờ (tổng cộng tối đa là 48 giờ). Qua thực tiễn thi hành Luật cho thấy thời gian quy định trên đây để thành lập Hội đồng định giá là không phù hợp, cần quy định dài hơn nữa vì việc tổ chức định giá đối với những vụ vi phạm mà tang vật là hàng hóa nhập lậu có giá trị lớn, đặc biệt ở các khu vực biên giới, biển đảo rất khó khăn. Hơn nữa, có nhiều vụ vi phạm tang vật gồm nhiều chủng loại hàng hóa, khó xác minh giá trị… việc xác định giá trị trong khoảng thời gian 24 giờ (tối đa là 48 giờ) sẽ không đảm bảo tính chính xác, có thể dẫn đến việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính không chính xác, không đúng thẩm quyền.

1.9. Quyền giải trình của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính

Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 những trường hợp pháp luật quy định áp dụng hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc áp dụng mức phạt tiền tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Thực tiễn thi hành Luật cho thấy những trường hợp mà đối tượng vi phạm bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc phương tiện sử dụng trong vi phạm hành chính lại không được giải trình. Quy định này là không hợp lý, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đối tượng vi phạm, vì trong nhiều trường hợp, nhiều tang vật, phương tiện vi phạm còn có giá trị lớn hơn nhiều lần mức phạt tiền tối đa là 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân và từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức.

1.10. Về tạm giữ người theo thủ tục hành chính

Việc quy định tạm giữ người theo thủ tục hành chính (khoản 1 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) là quá hẹp, gây khó khăn trong quá trình áp dụng, thi hành Luật. Thực tiễn thi hành Luật cho thấy, ngoài những trường hợp được tạm giữ hành chính quy định trong Luật, còn một số trường hợp khác liên quan đến việc quản lý người vi phạm để bảo đảm cho công tác xử phạt vi phạm hành chính, cũng cần được quy định trong luật về tạm giữ hành chính như: (i) Trường hợp đối tượng có nhiều hành vi vi phạm khác nhau như đánh bạc, trộm cắp tài sản… cần có thời gian để xác minh, làm rõ hành vi, hậu quả, thiệt hại cũng cần phải tạm giữ hành chính; (ii) Trường hợp cần xác minh về nhân thân của các đối tượng vi phạm để xử lý theo đúng quy định pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm; (iii) Trường hợp các đối tượng có các hành vi chống lại người thi hành công vụ.

1.11. Xử lý tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị tạm giữ theo thủ tục hành chính

Khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định, đối với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước. Hiện nay, Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đều chưa có hướng dẫn cụ thể về hình thức nộp tiền; trình tự, thủ tục nộp tiền; thời điểm nộp tiền; thời điểm trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp… Bên cạnh đó, trong trường hợp các phương tiện vi phạm hành chính như xe ô tô, máy xúc, máy ủi, tàu thuyền là những tài sản có giá trị lớn, do những người làm công, làm thuê quản lý, sử dụng và thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trong trường hợp này, các lực lượng chức năng không thể tịch thu các phương tiện mà phải trả lại cho chủ sở hữu, đồng thời yêu cầu người làm công, làm thuê phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá phương tiện vi phạm hành chính, trong khi hầu hết những đối tượng này đều thuộc diện nghèo khó, không có điều kiện kinh tế để thi hành quyết định xử phạt.

1.12. Nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính và áp dụng tình tiết tăng nặng trong xử phạt hành chính

Tại điểm d khoản 1 Điều 3 về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định “một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”. Tại điểm b khoản 1 Điều 10 quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng. Theo quy định của Luật thì tại điểm d khoản 1 Điều 3 quy định về nguyên tắc xử phạt hành vi vi phạm hành chính, còn tại điểm b khoản 1 Điều 10 quy định về áp dụng tình tiết tăng nặng trong khi xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thực tiễn vừa qua ở một số địa phương do nhận thức về quy định này không đúng, dẫn đến việc áp dụng Luật chưa thống nhất. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần, có nơi xử phạt về từng hành vi vi phạm, có nơi chỉ xử phạt một hành vi còn những hành vi khác là tình tiết tăng nặng nên không xử phạt.

1.13. Chưa có sự thống nhất giữa các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước

Tại khoản 5 Điều 2 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 đã quy định: Hành vi vi phạm hành chính phải được quy định tại các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước tương ứng, phù hợp với tính chất vi phạm của hành vi đó. Trường hợp hành vi vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực này nhưng do tính chất vi phạm đặc thù của hành vi đó, thì có thể quy định và xử phạt trong nghị định xử phạt vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực khác. Trong trường hợp này, hình thức, mức xử phạt quy định phải thống nhất với quy định tại nghị định xử phạt vi phạm hành chính của lĩnh vực quản lý nhà nước tương ứng. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định về hành vi vi phạm hành chính của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước chưa có sự thống nhất, đồng bộ. Chẳng hạn cùng là hành vi xả rác nơi công cộng nhưng giữa các nghị định lại quy định mức xử phạt khác nhau: Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt[1], hành vi xả rác nơi công cộng thì bị phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng. Nhưng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường[2] thì hành vi xả rác nơi công cộng bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

2. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

2.1. Bổ sung vào Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về giải thích từ ngữ những khái niệm: Trình độ lạc hậu; có quy mô lớn và trị giá hàng hóa lớn; vi phạm hành chính nghiêm trọng; vụ việc đặc biệt nghiêm trọng; nhiều tình tiết phức tạp; hành vi “trốn tránh”; hành vi “trì hoãn”; hành vi “côn đồ hung hãn”; gây hậu quả lớn và gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội; tài sản khác.

2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 6 về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính quy định cụ thể về “vi phạm hành chính đã kết thúc”, “vi phạm hành chính đang được thực hiện”.

2.3. Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 về giao quyền cho cấp phó, ngoài thẩm quyền xử phạt hành chính cấp phó còn được quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 87 theo hướng bỏ quy định về việc giao quyền cho cấp phó chỉ được thực hiện khi cấp trưởng vắng mặt.

2.4. Hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót; trường hợp quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót đã gây hậu quả, nếu sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới thì giải quyết hậu quả này như thế nào; trường hợp nội dung quyết định xử phạt đúng nhưng trình tự, thủ tục ban hành có sai sót thì xử lý như thế nào; trường hợp lập biên bản vi phạm hành chính có sai sót thì việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành mới biên bản vi phạm hành chính như thế nào.

2.5. Sửa đổi, bổ sung quy định từ Điều 38 đến Điều 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính không bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền, để tránh một số trường hợp thẩm quyền phạt tiền thuộc cấp dưới nhưng lại không có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nên phải chuyển lên cấp trên xử lý tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

2.6. Sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 3 Điều 40; điểm đ khoản 4 Điều 40 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thẩm quyền của Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh được áp dụng cả điểm d khoản 1 Điều 28 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện”.

2.7. Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 39 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về thẩm quyền xử phạt hành chính của các chức danh thuộc Công an nhân dân cho phù hợp với tổ chức bộ máy của các đơn vị thuộc Bộ Công an vừa mới thay đổi.

2.8. Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng những vụ vi phạm hành chính mà số lượng hàng hóa nhập lậu có giá trị lớn ở các khu vực biên giới, biển đảo, những vụ vi phạm tang vật gồm nhiều chủng loại hàng hóa, khó xác minh giá trị… thì thời gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị có thể kéo dài thêm nhưng không được quá 05 ngày làm việc.

2.9. Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 theo hướng những trường hợp bị áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hoặc phương tiện sử dụng trong vi phạm hành chính có quyền giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

2.10. Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính được áp dụng trong cả trường hợp như: Đánh bạc, trộm cắp tài sản…; trường hợp cần xác minh về nhân thân của các đối tượng vi phạm; trường hợp các đối tượng có các hành vi chống lại người thi hành công vụ.

2.11. Cần có hướng dẫn cụ thể việc thi hành quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Đối với tang vật, phương tiện đang bị tạm giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp. Trong trường hợp này, cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước”.

2.12. Cần hướng dẫn cụ thể việc thi hành quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 về nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính quy định “một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm” và tại điểm b khoản 1 Điều 10 quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng.

2.13. Thống nhất giữa các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước: Sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt về hành vi xả rác nơi công cộng và điểm d khoản 1 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho thống nhất về mức xử phạt đối với hành vi xả rác nơi công cộng.

ThS. Phạm Thu Giang
Đại học Giao thông vận tải



[1]. Xem: Điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

[2]. Xem: Điểm d khoản 1 Điều 20 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18/11/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi