Thứ hai 08/12/2025 07:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số điểm mới cơ bản về nội dung thẩm định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP) có nhiều quy định mới thể hiện tính đột phá trong tư duy xây dựng pháp luật, trong đó, có công tác thẩm định.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thẩm định; nâng cao trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo (cơ quan đề nghị thẩm định); ràng buộc trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ tham gia thẩm định; quy định rõ trách nhiệm, nâng cao vai trò, vị trí của Bộ Tư pháp trong quá trình thẩm định cũng như báo cáo thẩm định.

Thẩm định chính sách của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình được quy định tại Điều 31 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và được quy định cụ thể tại Điều 16 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình được quy định tại Điều 34 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Điều 19 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định dự thảo nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 28, Điều 33, Điều 35, Điều 37 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại Điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 52 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thẩm định văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 6 Điều 68 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.

Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP về công tác thẩm định có một số điểm mới, cụ thể:

Một là, việc thẩm định chính sách, dự án, dự thảo bắt buộc phải có sự tham gia hoặc ý kiến của 05 Bộ: Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.

Bộ Ngoại giao có ý kiến về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý kiến về bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; Bộ Nội vụ có ý kiến về việc phân quyền, phân cấp và nguồn nhân lực; Bộ Tư pháp có ý kiến về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật

Trường hợp không thể tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định, thành viên hội đồng thẩm định, người được cử tham gia cuộc họp thẩm định phải gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản đến Bộ Tư pháp trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày tổ chức cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định.

Trường hợp Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ không có đại diện tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định mà không gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản thì Bộ Tư pháp có thông báo bằng văn bản gửi Bộ trưởng các Bộ về việc này và kèm theo báo cáo thẩm định

Hai là, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã bỏ quy định cuộc họp thẩm định chỉ được tiến hành khi có đủ 2/3 thành viên hội đồng thẩm định có mặt.

Ba là, hồ sơ thẩm định được bổ sung một số tài liệu.

Đối với hồ sơ thẩm định chính sách bổ sung: Báo cáo rà soát các chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan đến chính sách và Bản thuyết minh quy phạm hóa chính sách đối với hồ sơ thẩm định chính sách.

Đối với hồ sơ dự án, dự thảo bổ sung: việc phân quyền, phân cấp, chính sách dân tộc (nếu có); bản thuyết minh quy phạm hóa chính sách trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bản so sánh dự thảo sửa đổi, bổ sung, thay thế với luật, pháp lệnh, nghị quyết hiện hành; bản so sánh, thuyết minh nội dung dự thảo với nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Bốn là, nội dung thẩm định được bổ sung một số nội dung: (i) bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; (ii) việc phân quyền, phân cấp; chính sách dân tộc (nếu có).

Năm là, báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình Chính phủ; thể hiện việc tham gia ý kiến thẩm định của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ.

Trường hợp báo cáo thẩm định kết luận hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện thì báo cáo thẩm định phải nêu rõ nội dung, yêu cầu tiếp thu, hoàn thiện.

Sáu là, trường hợp chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo phải tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ dự án gửi Bộ Tư pháp để thẩm định lại. Việc thẩm định lại có thể tiến hành nhiều lần.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã có nhiều quy định mới liên quan đến công tác thẩm định so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành (Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 14/5/2026 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 59/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ). Do đó, các quy định tại Quyết định số 2419/QĐ-BTP ngày 29/12/2024 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP.

Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp; trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo; trách nhiệm của thành viên hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định trong quá trình thẩm định.

Về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong quá trình thẩm định, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định trách nhiệm thẩm định của Bộ Tư pháp: (i) Chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan, tổ chức khác trong việc tổ chức thẩm định; (ii) tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ gửi thẩm định; (iii) tổ chức thẩm định theo các nội dung, hình thức, thời gian quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP; (iv) xây dựng Báo cáo thẩm định bảo đảm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP; (v) tham gia khi các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua các chính sách, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kết quả thẩm định (khoản 6 Điều 68 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025).

Riêng đối với dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo, Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức có liên quan rà soát về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo; ngôn ngữ, thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản và có văn bản gửi bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo về kết quả rà soát (khoản 2 Điều 21 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP).

Về trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP có thể khái quát trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo văn bản (cơ quan đề nghị thẩm định) trong quá trình thẩm định như sau: (i) gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp đề nghị thẩm định theo đúng thành phần và hình thức quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Nếu hồ sơ chưa đáp ứng yêu cầu thì phải hoàn thiện và gửi lại Bộ Tư pháp; (ii) đối với thẩm định chính sách, dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình thì lãnh đạo cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thuyết trình và giải trình các vấn đề liên quan đến chính sách, dự án tại cuộc họp thẩm định; (iii) trường hợp báo cáo thẩm định kết luận hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện thì cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo nghiên cứu, xây dựng báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định và chịu trách nhiệm về nội dung tiếp thu, giải trình để trình Chính phủ.

Trường hợp hồ sơ chính sách, dự án chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo phải tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo và gửi Bộ Tư pháp thẩm định lại.

Về trách nhiệm của thành viên Hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP, trách nhiệm của thành viên hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định có thể khái quát:

(i) Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tham gia hoặc có ý kiến trả lời bằng văn bản khi Bộ Tư pháp mời họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định hoặc lấy ý kiến thẩm định bằng văn bản. Trường hợp không thể tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định, thành viên hội đồng thẩm định, người được cử tham gia cuộc họp thẩm định phải gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản đến Bộ Tư pháp trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày tổ chức cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định. Trường hợp thẩm định gấp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thì thời hạn gửi ý kiến thẩm định theo đề nghị của Bộ Tư pháp. Hết thời hạn gửi ý kiến bằng văn bản mà không có ý kiến thì được hiểu là nhất trí với hồ sơ chính sách, dự thảo văn bản.

(ii) Nghiên cứu hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, phát biểu ý kiến thẩm định và thể hiện rõ ý kiến về hồ sơ đủ hay chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

(iii) Chịu trách nhiệm về ý kiến thẩm định thuộc phạm vi quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của cơ quan mình. Trong đó, đại diện Bộ Ngoại giao có ý kiến về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý kiến về bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; đại diện Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; đại diện Bộ Nội vụ có ý kiến về việc phân quyền, phân cấp và nguồn nhân lực.

(iv) Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ tham gia thẩm định nhận thông báo kèm báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp về việc không có đại diện tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định mà không gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản (chuẩn bị ý kiến tại phiên họp Chính phủ về những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của mình khi được yêu cầu).

Minh Trí

Ảnh: internet

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số

Pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số

Tóm tắt: Trong bối cảnh các nền tảng trực tuyến phát triển mạnh mẽ, hoạt động quảng cáo thương mại tại Việt Nam ngày càng đa dạng về hình thức, đối tượng tác động nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu cho thấy, pháp luật hiện hành còn nhiều khoảng trống trong điều chỉnh hành vi quảng cáo trên môi trường số, ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng. Trên cơ sở nghiên cứu, kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia trên thế giới, bài viết làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam về quảng cáo thương mại trong kỷ nguyên số, chỉ ra những điểm hạn chế, từ đó, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về quảng cáo, tăng cường cơ chế giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý, hướng tới xây dựng môi trường quảng cáo số lành mạnh.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Thực tiễn áp dụng quy định tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài và một số kiến nghị

Thực tiễn áp dụng quy định tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài và một số kiến nghị

Tóm tắt: Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thay thế, ngoài Tòa án được điều chỉnh bởi Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng các quy định của tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài, dẫn đến việc áp dụng và giải thích pháp luật thiếu nhất quán. Bài viết phân tích, làm rõ về việc áp dụng quy định trong tố tụng Tòa án vào tố tụng trọng tài qua một số vụ việc thực tế để đánh giá tính hợp lý trong việc áp dụng; từ đó, đưa ra một số đề xuất bảo đảm tính thống nhất trong giải thích và áp dụng pháp luật.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam

Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã ở Việt Nam

Tóm tắt: Những năm gần đây, hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, còn nhiều bất cập trong quy định và tổ chức thực thi, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá, thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng, nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã.
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật - Cơ hội, thách thức và một số giải pháp

Tóm tắt: Bài viết phân tích cơ hội và thách thức đặt ra cho hoạt động đào tạo luật trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh đang phát triển nhanh và tác động mạnh mẽ đến giáo dục pháp luật. Từ việc nhận diện các yêu cầu đổi mới theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nghiên cứu đánh giá tiềm năng ứng dụng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật; đồng thời, chỉ ra những rủi ro liên quan như gian lận học thuật, sai lệch thông tin, định kiến thuật toán và các vấn đề đạo đức, pháp lý. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện khi tích hợp trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong đào tạo luật tại Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Tóm tắt: Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt về phòng, chống hàng giả, tuy nhiên, tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và hình thức. Bài viết nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng vi phạm hàng giả và những khó khăn, vướng mắc trong công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết phân tích sự cần thiết phải thu hút và trọng dụng chuyên gia, trí thức, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tạo đột phá trong xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện cho thấy chính sách thu hút chuyên gia pháp luật ở nước ngoài của Việt Nam chưa hiệu quả, chưa khai thác được tiềm năng khoa học, trí thức của kiều bào. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, gồm hoàn thiện cơ chế pháp lý, thiết lập tiêu chí, tiêu chuẩn lựa chọn, ban hành chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút và phát huy tối đa vai trò của lực lượng này phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.
Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Sáng 4/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội họp Phiên toàn thể ở Hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi).
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.

Theo dõi chúng tôi trên: