Thứ hai 17/11/2025 19:33
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số điểm mới cơ bản về nội dung thẩm định theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP) có nhiều quy định mới thể hiện tính đột phá trong tư duy xây dựng pháp luật, trong đó, có công tác thẩm định.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục thẩm định; nâng cao trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo (cơ quan đề nghị thẩm định); ràng buộc trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ tham gia thẩm định; quy định rõ trách nhiệm, nâng cao vai trò, vị trí của Bộ Tư pháp trong quá trình thẩm định cũng như báo cáo thẩm định.

Thẩm định chính sách của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình được quy định tại Điều 31 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và được quy định cụ thể tại Điều 16 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình được quy định tại Điều 34 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Điều 19 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định dự thảo nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ được quy định tại Điều 28, Điều 33, Điều 35, Điều 37 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật theo trình tự, thủ tục rút gọn quy định tại Điều 51 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 52 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thẩm định văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại khoản 6 Điều 68 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025.

Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP về công tác thẩm định có một số điểm mới, cụ thể:

Một là, việc thẩm định chính sách, dự án, dự thảo bắt buộc phải có sự tham gia hoặc ý kiến của 05 Bộ: Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.

Bộ Ngoại giao có ý kiến về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý kiến về bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; Bộ Nội vụ có ý kiến về việc phân quyền, phân cấp và nguồn nhân lực; Bộ Tư pháp có ý kiến về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật

Trường hợp không thể tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định, thành viên hội đồng thẩm định, người được cử tham gia cuộc họp thẩm định phải gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản đến Bộ Tư pháp trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày tổ chức cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định.

Trường hợp Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ không có đại diện tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định mà không gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản thì Bộ Tư pháp có thông báo bằng văn bản gửi Bộ trưởng các Bộ về việc này và kèm theo báo cáo thẩm định

Hai là, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã bỏ quy định cuộc họp thẩm định chỉ được tiến hành khi có đủ 2/3 thành viên hội đồng thẩm định có mặt.

Ba là, hồ sơ thẩm định được bổ sung một số tài liệu.

Đối với hồ sơ thẩm định chính sách bổ sung: Báo cáo rà soát các chủ trương, đường lối của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế có liên quan đến chính sách và Bản thuyết minh quy phạm hóa chính sách đối với hồ sơ thẩm định chính sách.

Đối với hồ sơ dự án, dự thảo bổ sung: việc phân quyền, phân cấp, chính sách dân tộc (nếu có); bản thuyết minh quy phạm hóa chính sách trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bản so sánh dự thảo sửa đổi, bổ sung, thay thế với luật, pháp lệnh, nghị quyết hiện hành; bản so sánh, thuyết minh nội dung dự thảo với nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Bốn là, nội dung thẩm định được bổ sung một số nội dung: (i) bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; (ii) việc phân quyền, phân cấp; chính sách dân tộc (nếu có).

Năm là, báo cáo thẩm định phải thể hiện rõ hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình Chính phủ; thể hiện việc tham gia ý kiến thẩm định của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ.

Trường hợp báo cáo thẩm định kết luận hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện thì báo cáo thẩm định phải nêu rõ nội dung, yêu cầu tiếp thu, hoàn thiện.

Sáu là, trường hợp chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan chủ trì soạn thảo phải tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ dự án gửi Bộ Tư pháp để thẩm định lại. Việc thẩm định lại có thể tiến hành nhiều lần.

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP đã có nhiều quy định mới liên quan đến công tác thẩm định so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành (Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 14/5/2026 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Nghị định số 59/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ). Do đó, các quy định tại Quyết định số 2419/QĐ-BTP ngày 29/12/2024 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về thẩm định đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cũng cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với quy định mới của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP.

Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp; trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo; trách nhiệm của thành viên hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định trong quá trình thẩm định.

Về trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong quá trình thẩm định, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định trách nhiệm thẩm định của Bộ Tư pháp: (i) Chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các cơ quan, tổ chức khác trong việc tổ chức thẩm định; (ii) tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ gửi thẩm định; (iii) tổ chức thẩm định theo các nội dung, hình thức, thời gian quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP; (iv) xây dựng Báo cáo thẩm định bảo đảm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP; (v) tham gia khi các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua các chính sách, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về kết quả thẩm định (khoản 6 Điều 68 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025).

Riêng đối với dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo, Thường trực cơ quan chủ trì thẩm tra, cơ quan, tổ chức có liên quan rà soát về tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo; ngôn ngữ, thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản và có văn bản gửi bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo về kết quả rà soát (khoản 2 Điều 21 Nghị định số 78/2025/NĐ-CP).

Về trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP có thể khái quát trách nhiệm của cơ quan đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo văn bản (cơ quan đề nghị thẩm định) trong quá trình thẩm định như sau: (i) gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp đề nghị thẩm định theo đúng thành phần và hình thức quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP. Nếu hồ sơ chưa đáp ứng yêu cầu thì phải hoàn thiện và gửi lại Bộ Tư pháp; (ii) đối với thẩm định chính sách, dự án luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình thì lãnh đạo cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thuyết trình và giải trình các vấn đề liên quan đến chính sách, dự án tại cuộc họp thẩm định; (iii) trường hợp báo cáo thẩm định kết luận hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện thì cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo nghiên cứu, xây dựng báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định và chịu trách nhiệm về nội dung tiếp thu, giải trình để trình Chính phủ.

Trường hợp hồ sơ chính sách, dự án chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, cơ quan lập đề xuất chính sách, chủ trì soạn thảo phải tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo và gửi Bộ Tư pháp thẩm định lại.

Về trách nhiệm của thành viên Hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025 và Nghị định số 78/2025/NĐ-CP, trách nhiệm của thành viên hội đồng thẩm định hoặc người tham gia cuộc họp thẩm định có thể khái quát:

(i) Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ và cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm tham gia hoặc có ý kiến trả lời bằng văn bản khi Bộ Tư pháp mời họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định hoặc lấy ý kiến thẩm định bằng văn bản. Trường hợp không thể tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định, thành viên hội đồng thẩm định, người được cử tham gia cuộc họp thẩm định phải gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản đến Bộ Tư pháp trong thời hạn chậm nhất là 03 ngày kể từ ngày tổ chức cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định. Trường hợp thẩm định gấp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thì thời hạn gửi ý kiến thẩm định theo đề nghị của Bộ Tư pháp. Hết thời hạn gửi ý kiến bằng văn bản mà không có ý kiến thì được hiểu là nhất trí với hồ sơ chính sách, dự thảo văn bản.

(ii) Nghiên cứu hồ sơ chính sách, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, phát biểu ý kiến thẩm định và thể hiện rõ ý kiến về hồ sơ đủ hay chưa đủ điều kiện trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

(iii) Chịu trách nhiệm về ý kiến thẩm định thuộc phạm vi quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực của cơ quan mình. Trong đó, đại diện Bộ Ngoại giao có ý kiến về tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có ý kiến về bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh; đại diện Bộ Tài chính có ý kiến về nguồn tài chính; đại diện Bộ Nội vụ có ý kiến về việc phân quyền, phân cấp và nguồn nhân lực.

(iv) Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ tham gia thẩm định nhận thông báo kèm báo cáo thẩm định của Bộ Tư pháp về việc không có đại diện tham gia cuộc họp hội đồng thẩm định hoặc cuộc họp thẩm định mà không gửi ý kiến thẩm định bằng văn bản (chuẩn bị ý kiến tại phiên họp Chính phủ về những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của mình khi được yêu cầu).

Minh Trí

Ảnh: internet

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam

Tóm tắt: Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp quyết liệt về phòng, chống hàng giả, tuy nhiên, tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả vẫn diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và hình thức. Bài viết nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng vi phạm hàng giả và những khó khăn, vướng mắc trong công tác phòng, chống hàng giả tại Việt Nam hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Hoàn thiện chính sách, pháp luật thu hút chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết phân tích sự cần thiết phải thu hút và trọng dụng chuyên gia, trí thức, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia pháp luật Việt Nam ở nước ngoài, nhằm tạo đột phá trong xây dựng và phát triển đất nước. Trên cơ sở phân tích, đánh giá một số quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện cho thấy chính sách thu hút chuyên gia pháp luật ở nước ngoài của Việt Nam chưa hiệu quả, chưa khai thác được tiềm năng khoa học, trí thức của kiều bào. Từ đó, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mang tính đột phá, gồm hoàn thiện cơ chế pháp lý, thiết lập tiêu chí, tiêu chuẩn lựa chọn, ban hành chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút và phát huy tối đa vai trò của lực lượng này phục vụ xây dựng, phát triển đất nước.
Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự theo yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Sáng 4/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội họp Phiên toàn thể ở Hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi).
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Công tác thi hành án dân sự trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Công tác thi hành án dân sự trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) đang được xây dựng và dự kiến thông qua trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, thể hiện hành lang pháp lý cho ngành THADS ngày càng vững vàng, cho thấy quyết tâm hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác THADS trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật tại Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Tóm tắt: Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật là yêu cầu quan trọng được Đảng và Nhà nước đặt biệt quan tâm. Ngày 27/6/2024, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 178-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, hiện, các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật chưa quy định cụ thể, rõ ràng. Bài viết nghiên cứu một số vấn đề về phòng, chống tham nhũng trong công tác xây dựng pháp luật, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Hoàn thiện pháp luật về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú

Hoàn thiện pháp luật về cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú

Tóm tắt: Thời gian qua, nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú, đặc biệt là các cơ sở nhỏ lẻ, chưa tuân thủ nghiêm các điều kiện về an ninh, trật tự; một số cơ sở hoạt động không phép hoặc cố tình lợi dụng “kẽ hở” của pháp luật để không thực hiện đúng các quy định pháp luật đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú. Từ thực tiễn này, bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi