1. Đặt vấn đề
Tham nhũng và đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tham nhũng được nhận diện là một quốc nạn, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Công tác phòng, chống tham nhũng được xác định là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn và phức tạp.
Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố, Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên, thể hiện một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong công tác phòng, chống tham nhũng. Năm 2019 đạt 37/100 điểm, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Năm 2021, Việt Nam đạt 39/100 điểm, đứng thứ 17/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Đến năm 2022, chỉ số tham nhũng tại Việt Nam tăng 3 điểm so với năm 2021, tức đạt 42/100 điểm[1]. Xét trên thang điểm từ 0 - 100 của CPI, trong đó 0 thể hiện mức độ cảm nhận tham nhũng cao nhất và 100 là mức độ cảm nhận tham nhũng thấp nhất, mặc dù có nhiều nỗ lực trong công tác phòng, chống tham nhũng, thông qua các chỉ số trên thì Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia trên thế giới có điểm dưới 50. Điều này cho thấy tình trạng tham nhũng vẫn được cho là rất nghiêm trọng ở Việt Nam.
Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, từng bước tiến mạnh với nhiều chủ trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, đã kiểm soát tốt được tham nhũng. Đặc biệt là việc tham gia, phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng ngày 03/7/2009, cũng như ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Dựa trên khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng, có thể thấy các biện pháp phòng, chống tham nhũng được áp dụng khá phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, cụ thể các giải pháp như: Giáo dục về phòng, chống tham nhũng; kiểm soát tài sản, thu nhập; kiểm soát xung đột lợi ích; công khai, minh bạch… Đặc biệt, công tác chuyển đổi vị trí công tác là một trong những giải pháp phòng ngừa được đánh giá là một trong những giải pháp được tiến hành một cách rộng rãi, chặt chẽ và “bài bản”, hiệu quả cao.
2. Khái quát chung về chuyển đổi vị trí công tác
2.1. Quan niệm về chuyển đổi vị trí công tác
Tại Việt Nam, bản chất về chuyển đổi vị trí công tác đã được thể hiện ở những hình thức, tên gọi và có ý nghĩa tương đồng với khái niệm luân chuyển, điều động và biệt phái. Những khái niệm này đều được hiểu là công chức, viên chức được chuyển từ vị trí công việc hiện tại đến làm ở vị trí công việc khác cùng chuyên môn, nghiệp vụ[2].
Với mục tiêu là phòng, chống tham nhũng, khái niệm “chuyển đổi vị trí công tác” có những đặc điểm riêng, có thể hiểu một cách rõ nét nhất về chuyển đổi vị trí công tác là việc công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý khi có đủ thời hạn làm việc được chuyển từ vị trí công việc hiện tại đến vị trí công việc khác hoặc chuyển đến một cơ quan khác nhưng làm việc ở vị trí có tính chất tương tự hoặc tương đương với vị trí cũ; việc chuyển đổi vị trí công tác được thực hiện trong các lĩnh vực, ngành, nghề được đánh giá là dễ nảy sinh tham nhũng.
2.2. Đặc điểm của chuyển đổi vị trí công tác
Hoạt động chuyển đổi vị trí công tác có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, về mục đích: Theo Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng có quy định về biện pháp về phòng, chống tham nhũng, trong đó có nêu về biện pháp về nhân lực, cụ thể: “Mỗi quốc gia thành viên nỗ lực duy trì và củng cố chế độ tuyển dụng, thuê, giữ lại, đề bạt và hưu trí đối với công chức, và khi thích hợp, đối với cả những công chức không do bầu cử khác”, “Chế độ này bao gồm quy trình thích hợp để lựa chọn, đào tạo cá nhân vào những vị trí được coi là rất dễ liên quan đến tham nhũng, và khi thích hợp, để luân chuyển các cá nhân đó sang những vị trí khác”. Công ước Liên Hợp quốc đã chỉ ra một trong những biện pháp để thực hiện phòng, chống tham nhũng đó là việc xây dựng chế độ, chính sách về nhân sự làm việc tại các cơ quan nhà nước, các cơ quan công quyền. Việc xây dựng chế độ chính sách không chỉ dừng lại trong việc bảo đảm vấn đề về chuyên môn, lương thưởng mà còn là việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, đặc biệt là công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác của cá nhân để phần nào hạn chế được hành vi tham nhũng xảy ra.
Theo khoản 1 Điều 24 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền có trách nhiệm định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và viên chức trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình nhằm phòng ngừa tham nhũng”.
Khác với mục đích của hoạt động luân chuyển là nhằm đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cán bộ lãnh đạo, quản lý; hay mục đích của hoạt động điều động và biệt phái là nhằm thực hiện công việc, nhiệm vụ của cơ quan. Mục đích cốt lõi của chuyển đổi vị trí công tác, được ghi nhận trong luật quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam, là nhằm phòng ngừa tham nhũng. Chuyển đổi vị trí công tác được thực hiện như là một biện pháp, giải pháp để phòng, chống tham nhũng; cụ thể là, tránh tình trạng một người làm quá lâu ở một vị trí, lợi dụng vị trí công tác, mối quan hệ quen biết trong công tác để thực hiện hành vi tham nhũng.
Thứ hai, về đối tượng: Chủ thể phải thực hiện chuyển đổi vị trí công tác là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có liên quan đến việc quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước, trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân. Bởi vậy, việc chuyển đổi vị trí công tác sẽ được thực hiện một cách toàn diện hơn, mọi đối tượng làm việc trong cơ quan nhà nước đều phải chuyển đổi vị trí công tác, phần nào giúp cho việc phòng, chống tham nhũng được đi sâu và rộng hơn đến các cán bộ, công chức, viên chức và cả người lao động nói chung trong khu vực công. Tuy nhiên, việc chuyển đổi vị trí công tác phải bảo đảm phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo và đặc biệt là không làm thay đổi tính chất công việc của cán bộ, công chức, viên chức được chuyển đổi vị trí công tác.
Thứ ba, về phương thức thực hiện: Việc chuyển đổi vị trí công tác là chuyển đổi vị trí công tác cùng chuyên môn, nghiệp vụ từ bộ phận này sang bộ phận khác trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; chuyển đổi, “tráo đổi” nhân sự trong địa bàn được phân công theo dõi, phụ trách, quản lý trong cùng một lĩnh vực hoặc giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi quản lý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương. Về bản chất, việc chuyển đổi vị trí công tác không làm thay đổi tính chất công việc, vị trí việc làm, chuyên môn của người được chuyển đổi, mà chỉ thay đổi về môi trường làm việc của họ. Chuyển đổi vị trí công tác được thực hiện bằng hình thức là văn bản điều động, bố trí, phân công nhiệm vụ đối với người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
2.3. Ý nghĩa của chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức
Chuyển đổi vị trí công tác là hình thức nâng cao hiệu quả thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong lĩnh vực chuyên môn, cũng như việc quản lý địa bàn tốt hơn; qua đó góp phần giảm thiểu nguy cơ tham nhũng. Chuyển đổi vị trí công tác sẽ loại bỏ tâm lý trì trệ của công chức và tính cục bộ trong từng bộ phận, từng cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Tình trạng cán bộ công tác tại một vị trí, một bộ phận quá lâu dẫn đến việc nắm bắt được những sơ hở về cơ chế, chính sách trong lĩnh vực mình công tác, quản lý là điều xảy ra thường xuyên, do trong quá trình thực thi chính sách và pháp luật còn chưa được thống nhất, đồng bộ, minh bạch. Tuy nhiên, thay vì tham mưu, nêu ý kiến đóng góp xây dựng để “cải tạo” sơ hở, những thiếu xót đó thì một số bộ phận cán bộ, công chức, viên chức lại lợi dụng kẽ hở đó để thực hiện hành vi tiêu cực; thậm chí có sự móc ngoặc, thông đồng với đối tượng bị quản lý để thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực. Khi đó, thông qua giải pháp chuyển đổi vị trí công tác, bên cạnh giải pháp bồi dưỡng phẩm chất cán bộ, công chức, viên chức nhằm phòng ngừa khắc phục tình trạng cục bộ trong từng địa phương, đơn vị; nhằm kiểm soát công việc lẫn nhau, người làm việc sau kiểm tra công việc của người trước đó, góp phần ngăn chặn hành vi tiêu cực và tăng cường ý thức kỷ luật công tác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức.
Việc chuyển đổi vị trí công tác không những tạo môi trường, điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ mà còn giúp họ tích lũy kinh nghiệm thực tế ở những vị trí công tác khác nhau. Mặc dù không thay đổi về vị trí việc làm cũng như chuyên môn, nhưng ở môi trường làm việc khác nhau, ở những địa phương khác nhau thì cách xử lý công việc cũng sẽ giúp cho cán bộ, công chức, viên chức nâng cao được kỹ năng xử lý công việc cũng như nhu cầu và ý thức nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân mình hơn.
Ngoài ra, việc chuyển đổi vị trí công tác cũng góp phần điều chỉnh, tăng cường cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ cho các lĩnh vực quản lý, địa bàn cần thiết khi có yêu cầu (đặc biệt là các địa bàn biên giới, hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa...). Đây là biện pháp quan trọng để rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức có điều kiện để tiếp cận và thông thạo nhiều lĩnh vực công việc ở nhiều vị trí khác nhau, có năng lực thực tiễn để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao khi có yêu cầu. Qua đó, cũng là phương thức để bồi dưỡng cán bộ, giúp cơ quan, tổ chức công lựa chọn ra được nhân lực có năng lực thực sự, phẩm chất tốt, có ý thức trong công việc, nhiệm vụ của mình.
2.4. Một số nguyên tắc trong chuyển đổi vị trí công tác
- Nguyên tắc hoán vị trong chuyển đổi vị trí công việc: Để thực hiện biện pháp này phải phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ, đúng nguyên tắc hoán vị, không ảnh hưởng đến tăng, giảm biên chế của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: Tính công khai trong chuyển đổi vị trí công tác thể hiện ở việc cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công bố, phổ biến hoặc cung cấp thông tin một cách rõ ràng, đầy đủ về kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác thông qua các phương tiện trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị để công chức có thể tiếp cận được kế hoạch một cách dễ dàng.
- Nguyên tắc cân bằng hiệu quả thực thi nhiệm vụ của cơ quan và hiệu quả phòng ngừa tham nhũng, nghĩa là, khi thực hiện chuyển đổi vị trí công tác cần có đánh giá tác động hiệu quả của biện pháp phòng ngừa tham nhũng này với việc bảo đảm sự vận hành của tổ chức, bộ máy cơ quan.
- Nguyên tắc kết hợp đồng bộ giữa việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác với các biện pháp phòng chống tham nhũng khác: Để thực hiện hiệu quả biện pháp này cần kết hợp triển khai song song với các biện pháp phòng ngừa tham nhũng khác trong Luật Phòng, chống tham nhũng và các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng.
3. Quy định pháp luật về chuyển đổi vị trí công tác
Sự ra đời của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và các văn bản liên quan đã tạo khung pháp lý quan trọng trong việc triển khai thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng. Quy định pháp luật về chuyển đổi vị trí công tác tạo cơ sở pháp lý rõ ràng trong việc thực thi công tác chuyển đổi vị trí công tác tại các cơ quan, đơn vị, cụ thể các quy định về những vấn đề:
3.1. Vị trí công tác thực hiện chuyển đổi
Theo quy định tại Điều 25 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, đối tượng phải chuyển đổi vị trí công tác là cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Danh mục vị trí công tác phải định kỳ chuyển đổi được quy định chi tiết tại Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ ban hành về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng (Nghị định số 59/2019/NĐ-CP), cụ thể gồm hai nhóm công việc với 119 vị trí công tác, trong đó, nhóm quản lý ngân sách, tài sản trong cơ quan, đơn vị (phân bổ ngân sách, kế toán, mua sắm công) có 03 vị trí.
Nhóm trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc (tổ chức cán bộ; tài chính, ngân hàng; công thương; xây dựng; giao thông; y tế; văn hóa - thể thao và du lịch; thông tin và truyền thông; tài nguyên và môi trường; nông nghiệp và phát triển nông thôn; đầu tư và ngoại giao; tư pháp; lao động - thương binh và xã hội; khoa học và công nghệ; giáo dục và đào tạo; quốc phòng; công an; thanh tra và phòng, chống tham nhũng) có 116 vị trí. Mặc dù tham nhũng là “căn bệnh” xảy ra ở mọi lĩnh vực trong đời sống, tuy nhiên để trị căn bệnh này hiệu quả, ta cần phải “điều trị” ở những vùng bệnh có nguy cơ cao, sau đó mới đến những vùng bệnh có nguy cơ thấp, để tránh lây lan. Hay nói cách khác, những lĩnh vực mà Nghị định số 59/2019/NĐ-CP đề cập đến được đánh giá là nhũng lĩnh vực mà tỷ lệ tham nhũng xảy ra nhiều, cũng như dễ dàng xảy ra tham nhũng nhất.
3.2. Thời hạn và phương thức chuyển đổi
Theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: “Thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là từ đủ 02 năm đến 05 năm theo đặc thù của từng ngành, lĩnh vực”. Khi đó, tùy theo từng đặc trưng ngành, lĩnh vực, thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quy định cụ thể danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong cơ quan, tổ chức, đơn mình và thuộc phạm vi quản lý theo ngành, lĩnh vực tại chính quyền địa phương.
Theo Thông tư 03/2021/TT-TTCP ngày 30/9/2021 của Thanh tra Chính phủ quy định về danh mục và thời hạn chuyển đổi vị trí công tác tại Thanh tra Chính phủ và vị trí công tác trong lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng tại chính quyền địa phương, thời hạn chuyển đổi vị trí công tác là từ đủ 03 năm đến 05 năm. Theo quy định tại Điều 5 Quyết định số 638/QĐ-BNV ngày 24/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và viên chức của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc, trực thuộc Bộ Nội vụ, thời hạn thực hiện chuyển đổi vị trí công tác là 05 năm. Tuy nhiên, tùy theo thực tiễn của đơn vị, thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí việc làm có thể dưới 05 năm nhưng không được dưới 02 năm và phải báo cáo Bộ trưởng xem xét, quyết định.
3.3. Quy trình chuyển đổi vị trí công tác
Việc chuyển đổi vị trí công tác phải được thực hiện theo kế hoạch và được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Định kỳ hằng năm, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải ban hành và công khai kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác đối với người có chức vụ, quyền hạn theo thẩm quyền quản lý cán bộ. Kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác phải nêu rõ mục đích, yêu cầu, trường hợp cụ thể phải chuyển đổi vị trí công tác, thời gian thực hiện chuyển đổi, quyền, nghĩa vụ của người phải chuyển đổi vị trí công tác và biện pháp tổ chức thực hiện.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP thì khi thực hiện việc chuyển đổi, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện bằng văn bản điều động, bố trí, phân công nhiệm vụ đối với người có chức vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
3.4. Trường hợp chưa thực hiện chuyển đổi vị trí công tác
Theo quy định tại Điều 38 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định chưa thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức trong những trường hợp: (i) Người đang trong thời gian bị xem xét, xử lý kỷ luật; (ii) Người đang bị kiểm tra, xác minh, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử; (iii) Người đang điều trị bệnh hiểm nghèo được cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận; người đang đi học tập trung từ 12 tháng trở lên, người đang biệt phái; (iv) Phụ nữ đang trong thời gian mang thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; nam giới đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi do vợ mất hoặc trong trường hợp khách quan khác. Quy định pháp luật rất cụ thể về các trường hợp không thực hiện chuyển đổi vị trí công tác, bảo đảm tinh thần nhân đạo, bảo đảm quyền con người của các cá nhân trong hoàn cảnh đặc biệt như điều trị bệnh, phụ nữ mang thai… Bên cạnh đó, quy định tại Nghị định số 59/2019/NĐ-CP phần nào góp phần bảo đảm nguyên tắc pháp chế, công bằng với quy định không thực hiện chuyển đổi với những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật.
Theo Nghị định số 59/2019/NĐ-CP cũng quy định cụ thể về trường hợp không thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác: Không thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với người có thời gian công tác còn lại dưới 18 tháng cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu; chuyển đổi vị trí công tác trong trường hợp đặc biệt. Quy định này nhằm bảo đảm tinh thần trách nhiệm của các đối tượng chuyển đổi khi đảm nhận và thực hiện nhiệm vụ; cũng như duy trì được sự ổn định nhân sự trong công tác.
Trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ có một vị trí trong danh mục định kỳ chuyển đổi mà vị trí này có yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ khác với các vị trí còn lại của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó thì việc chuyển đổi do người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp lập kế hoạch chuyển đổi chung.
4. Thành tựu và hạn chế trong chuyển đổi vị trí công tác
Thứ nhất, tại một số cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cấp ủy đảng và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị đã nhận thức và quán triệt việc chuyển đổi vị trí công tác là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên góp phần phòng ngừa tham nhũng. Năm 2019, việc chuyển đổi vị trí công tác được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện, cả nước đã có 9.106 cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chuyển đổi vị trí công tác, đáp ứng 83.41% (tăng hơn 9% so với năm 2018) theo yêu cầu của Bộ chỉ số phòng chống tham nhũng cấp tỉnh (PACA)[3].
Thứ hai, kế hoạch, phương án chuyển đổi vị trí công tác ngày càng được hoàn thiện và chi tiết. Kế hoạch và kết quả chuyển đổi vị trí công tác đã từng bước được công khai trên trang điện tử của cơ quan, tổ chức, đơn vị thể hiện tính kế thừa, nâng cao năng lực và chuyên môn của công chức được chuyển đổi vị trí công tác trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng đội ngũ công chức. Theo Báo cáo đánh giá công tác phòng chống tham nhũng cấp tỉnh năm 2019, có 16 địa phương đạt điểm PACA tuyệt đối, cụ thể: Lai Châu, An Giang, Trà Vinh, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Đồng Tháp, Quảng Trị, Tây Ninh, Vĩnh Phúc, Bình Định, Đắk Lắk, Điện Biên, Cà Mau, Đà Nẵng, Gia Lai và Yên Bái[4].
Thứ ba, đa số cán bộ, công chức, viên chức khi được chuyển đổi vị trí đều an tâm công tác, nhanh chóng tiếp cận vị trí, công việc mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; một số cán bộ đã được xem xét bổ sung vào nguồn quy hoạch cán bộ, làm cơ sở để các cấp, các ngành bồi dưỡng, rèn luyện, tạo nguồn cán bộ lâu dài. Bởi lẽ, việc xây dựng kế hoạch cũng như triển khai công tác chuyển đổi vị trí công tác phù hợp với chuyên môn, vị trí công việc, cũng như tạo môi trường mới để bản thân các cá nhân phấn đấu và phát triển bản thân; cũng như bản thân các cán bộ, công chức, viên chức có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về công tác phòng, chống tham nhũng, giúp cho việc triển khai các biện pháp phòng, chống tham nhũng hiệu quả hơn.
Thứ nhất, việc chuyển đổi vị trí công tác ở nhiều cơ quan vẫn còn mang tính đối phó, chưa có kế hoạch thực hiện thường xuyên hoặc kế hoạch được xây dựng không mang tính khả thi hoặc dựa trên những nhu cầu thực tế, không đúng với quy định pháp luật; nhận thức về ý nghĩa cũng như phương pháp, cách làm còn thiếu nhất quán khiến cho công tác chuyển đổi vị trí công tác thiếu hiệu quả, không đạt được đúng mục đích về phòng, chống tham nhũng.
Nguyên nhân chủ yếu là do cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thực sự quan tâm trong việc rà soát, thống nhất xác định danh mục các vị trí công tác thuộc lĩnh vực, ngành nghề phải định kỳ chuyển đổi trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương trên cơ sở bảo đảm phù hợp theo quy định và tình hình thực tế.
Thứ hai, số lượng công chức được chuyển đổi vị trí công tác trên thực tế thường không đạt được so với kế hoạch đề ra hàng năm.
Do khó khăn, hạn chế trong xác định vị trí việc làm nên việc thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác gây khó khăn cho người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức do thiếu nguồn thay thế. Sau khi chuyển đổi, tiến độ giải quyết công việc chậm do năng lực của công chức hạn chế. Bên cạnh đó, do sự thay đổi về môi trường làm việc, khiến không ít cán bộ, công chức, viên chức chưa thích nghi kịp, khiến hiệu quả công việc được tiếp nhận chưa cao, bản thân người được chuyển đổi vị trí công tác cũng cần phải chủ động tìm hiểu về môi trường làm việc mới, thời gian tìm hiểu bị hạn hẹp nên cũng dẫn đến tình trạng kém hiệu quả về công việc như đã nêu.
Thứ ba, thực tế đang tồn tại những trường hợp khó có thể chuyển đổi vị trí công tác. Nguyên nhân là do chồng chéo giữa quy định pháp luật về chuyển đổi vị trí công tác với quy định pháp luật khác. Đặc biệt, nhiều vị trí công tác đòi hỏi về chuyên môn khác so với những vị trí khác nên rất khó có thể bảo đảm hoạt động chuyển đổi vị trí công tác được triển khai đồng bộ. Cụ thể về lĩnh vực đặc thù như quân đội, cảnh sát hoặc trong lĩnh vực y tế… thì việc chuyển đổi vị trí công tác cần phải xem xét kỹ lưỡng về chuyên môn cũng như năng lực của người được chuyển đổi, cũng như vị trí họ sẽ đảm nhận khi chuyển đổi, để có thể phát huy được năng lực làm việc của bản thân.
Thứ tư, việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đến nay đã khiến không ít công chức gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do chưa có chính sách được ban hành cùng với việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác một cách cụ thể, rõ ràng. Mặc dù nguyên tắc hoán vị luôn là nguyên tắc hàng đầu được đề cập khi xây dựng kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác tại các đơn vị, tuy nhiên, thực tiễn thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, do tác động nhiều yếu tố, ví dụ như về việc di chuyển, về nếp làm việc, chính sách đãi ngộ không đồng bộ…
5. Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi vị trí công tác
5.1. Hoàn thiện quy định pháp luật
Để nâng cao hiệu quả chuyển đổi vị trí công tác, theo tác giả, cần sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật theo một số định hướng sau:
- Định nghĩa rõ ràng thuật ngữ “chuyển đổi vị trí công tác” nhằm phân biệt với khái niệm “điều động” được quy định trong Luật Cán bộ, công chức. Mặc dù về mục đích của hai công tác này khác nhau, nhưng hai hoạt động đều thể hiện việc phân công, bố trí vị trí công tác đối với cán bộ theo quy định pháp luật, theo kế hoạch hoặc theo yêu cầu công tác của cơ quan có thẩm quyền. Ngoài ra, đối tượng áp dụng cũng đều là công chức, do vậy, việc phân định rõ hai khái niệm sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch chuyển đổi hay kế hoạch điều động theo quy định pháp luật.
- Cần có quy định nhấn mạnh chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng ngừa tham nhũng thông qua tạo động lực cho công chức thể hiện năng lực, chuyên môn, duy trì và nâng cao đạo đức, tính liêm chính và mang lại cơ hội thăng tiến. Đặc biệt phải coi đây là một nguồn nhân lực tích cực để lựa chọn, đào tạo và bổ nhiệm chức vụ cao hơn.
- Xây dựng tiêu chí về danh mục lĩnh vực, ngành nghề dễ phát sinh tham nhũng để các bộ, ngành, địa phương trên cơ sở danh mục xác định lại trọng tâm các vị trí công tác phải chuyển đổi vị trí công tác theo hướng tính đến thực tế các vị trí công tác đó có cơ hội tham nhũng thực sự hay không.
- Xem xét, ban hành quy định chi tiết hơn nhằm cụ thể hóa nội dung quy định về chế tài, xử lý vi phạm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra quyết định chuyển đổi vị trí công tác nhằm ngăn ngừa, hạn chế việc lợi dụng thẩm quyền vì mục đích vụ lợi, tiêu cực liên quan đến chuyển đổi vị trí công tác.
- Xem xét bổ sung quy định nhằm bảo đảm quyền lợi cho công chức đang được quy hoạch bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý nhưng phải chuyển đổi vị trí công tác, cũng như chính sách bảo đảm quyền lợi cho những cán bộ, công chức, viên chức phải chuyển đổi vị trí công tác.
5.2. Nâng cao hiệu quả thực hiện chuyển đổi vị trí công tác
Thứ nhất, đổi mới phương thức thực hiện chuyển đổi vị trí công tác. Trước tiên, cần gắn việc chuyển đổi vị trí công tác với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị để đánh giá kết quả thực tế việc chuyển đổi vị trí công tác và việc thực hiện không bị lợi dụng.
Các cơ quan có thẩm quyền cần đánh giá lại toàn bộ chính sách chuyển đổi vị trí công tác (chi phí bỏ ra, hiệu quả của việc thực hiện, thời gian đào tạo lại cán bộ, nguồn lực khác…) với tác dụng của việc thực hiện giải pháp này nhằm phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực.
Thứ hai, ban hành chính sách đãi ngộ đối với công chức phải chuyển đổi vị trí công tác cần có các chính sách như: Nhà ở công vụ, phụ cấp đi lại, nâng bậc lương trước thời hạn, hoặc có cam kết khi hết thời hạn chuyển đổi thì được trở lại đơn vị cũ làm việc. Từ đó, khi thực hiện chuyển đổi vị trí công tác, sẽ giảm bớt đi được nỗi lo về vật chất cũng như tinh thần đối với người được chuyển đổi, tạo tâm lý an tâm, để bản thân cán bộ, công chức, viên chức tập trung thực hiện nhiệm vụ, tập trung cống hiến.
Thứ ba, Thanh tra Chính phủ cần có sự chỉ đạo đến các đơn vị chức năng có liên quan, để đề xuất bổ sung, hoàn thiện các tiêu chí về đo lường mức độ hiệu quả phòng ngừa tham nhũng, trong đó xác định cụ thể, rõ ràng các tiêu chí liên quan đến hiệu quả chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo. Xem xét các quy định về các tiêu chí đánh giá, để có thể phân tích, đánh giá, phân loại được kết quả thực hiện so với kế hoạch chuyển đổi vị trí công tác. Công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả khi cơ quan quản lý có sự nhìn nhận và tổng hợp đánh giá về hiệu quả công việc cũng như hiệu quả của biện pháp này theo định kỳ hoặc theo yêu cầu.
Thứ tư, nâng cao hơn nữa về nhận thức, ý thức của các cá nhân khi thực hiện công tác chuyển đổi vị trí công tác, cụ thể là nắm vững tinh thần, mục đích của hoạt động chuyển đổi là nhằm phòng ngừa tham nhũng. Bên cạnh đó, nêu cao tinh thần trách nhiệm và tinh thần học hỏi của các cá nhân cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện việc chuyển đổi vị trí công tác, hướng đến việc học hỏi và bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc định hướng đúng về tư tưởng của cán bộ, công chức, viên chức về ý nghĩa công tác chuyển đổi vị trí công tác là rất quan trọng, bởi lẽ, bản thân những người được chuyển đổi vị trí công tác cần nắm vững được ý nghĩa cũng như trọng trách của mình khi thực hiện nhiệm vụ thì công tác này mới đạt được hiệu quả tốt. Bên cạnh đó, không chỉ cá nhân được chuyển đổi, mà công dân và các chủ thể khác cũng có thể thấy được ý nghĩa của biện pháp này trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại Việt Nam.
Thứ năm, phối hợp chặt chẽ công tác chuyển đổi vị trí công tác và các giải pháp phòng, chống tham nhũng khác theo quy định của pháp luật, bảo đảm tính hệ thống trong việc thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; bảo đảm công tác phòng, chống tham nhũng luôn song hành cùng công tác phát triển Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả khi phải có sự kết hợp với các biện pháp phòng, chống tham nhũng với nhau, tạo hiệu quả ở mọi khía cạnh. Không chỉ có vậy, khi thực hiện chuyển đổi vị trí công tác cũng là một cách để bản thân các cá nhân, cơ quan được trau dồi về phẩm chất, đạo đức, về quy tắc ứng xử của bản thân, từ đó, hoàn thiện bản thân mình hơn, góp phần xây dựng đất nước thêm trong sạch và vững mạnh hơn./.
ThS. Bùi Hồng Ngọc
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội
Ảnh: internet
[1] Tổ chức Minh bạch quốc tế, Chỉ số CPI, https://www.transparency.org/en/cpi, truy cập ngày 12/5/2023.
[2] Hoàng Yến (2021), Chuyển đổi vị trí công tác theo Luật Phòng, chống tham nhũng, nguồn: https://thanhtra.com.vn/phap-luat/tuyen-truyen-phap-luat/chuyen-doi-vi-tri-cong-tac-theo-luat-phong-chong-tham-nhung-3-190329.html, truy cập ngày 12/5/2023.
[3] Thanh tra Chính phủ, Báo cáo đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh năm 2019.
[4] Thanh tra Chính phủ, Báo cáo đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh năm 2019.