Chủ nhật 05/10/2025 07:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề về chuyển hóa tội danh trong áp dụng pháp luật hình sự

Chuyển hóa tội danh thường được xem xét ở giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành. Đối với trường hợp tội phạm đã hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành, sẽ không xuất hiện trường hợp chuyển hóa tội danh khác, vì khi đó, các tình tiết mới có liên quan sẽ không còn ý nghĩa làm thay đổi bản chất của tội phạm nên không thể chuyển thành tội danh mới. Trong diễn biến của quá trình thực hiện tội phạm, nhiều trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hành vi phạm tội diễn ra theo một chiều hướng khác so với hành vi ban đầu. Từ đó, hình thành nên trường hợp chuyển hóa tội phạm hay là chuyển hóa về tội danh và trên thực tế cũng không ít gặp những trường hợp như vậy. Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích một số vấn đề về chuyển hóa tội danh trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự.


1. Nhận thức về chuyển hóa tội danh trong pháp luật hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Về nguyên tắc, một người khi thực hiện hành vi thỏa mãn 04 yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm và chủ thể của tội phạm) thì hành vi đó sẽ cấu thành một tội tương ứng trong Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, diễn biến hành vi phạm tội trên thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra theo như ý định ban đầu, mà có thể phát sinh thêm nhiều tình tiết khác nhau dẫn đến hành vi phạm tội có thể diễn ra theo một chiều hướng khác. Do đó, tội phạm mà ý định ban đầu thực hiện đã chuyển thành một tội phạm khác, có nghĩa là hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành một tội danh khác được quy định trong Bộ luật Hình sự, mà khoa học luật hình sự gọi là “sự chuyển hóa về tội danh”. Đây là trường hợp đặc biệt và trên thực tế cũng không ít gặp những trường hợp như vậy[1].

Vấn đề chuyển hóa tội danh có ý nghĩa quan trọng, không chỉ góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận khoa học luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự, nhất là vấn đề định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng. Về mặt lập pháp, khái niệm “chuyển hóa tội danh” chưa được ghi nhận chính thức, nhưng trong khoa học luật hình sự, đây lại là vấn đề mang tính phổ biến, đòi hỏi những người làm công tác bảo vệ pháp luật phải nắm vững để làm cơ sở định tội danh trong những vụ án hình sự cụ thể.

Như vậy, chuyển hóa tội danh có thể hiểu là “trường hợp một hành vi phạm tội xảy ra tuy đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về mặt pháp lý, nhưng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội có những tình tiết đã làm thay đổi tính chất của tội phạm có thể là sự thay đổi về đối tượng bị tác động, về tính chất hành vi, về hậu quả hoặc về ý thức, thái độ phạm tội, sự xuất hiện những tình tiết mới đã làm cho bản chất hành vi phạm tội thỏa mãn với các yếu tố cấu thành tội phạm khác có thể là nặng hơn hoặc nhẹ hơn tội phạm ban đầu”.

Chuyển hóa tội danh có các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, là trường hợp một hành vi phạm tội xảy ra đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về mặt pháp lý, tức là, hành vi đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm, tội danh đã được hình thành, người thực hiện hành vi đã phạm tội theo tội danh đó.

Thứ hai, chuyển hóa tội danh thường được xem xét ở giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành. Những tình tiết mới làm thay đổi tính chất tội phạm phải xuất hiện trong quá trình tội phạm đang diễn ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành về hành vi, tại thời điểm này, hành vi phạm tội chưa phản ánh đầy đủ mọi dấu hiệu pháp lý phản ánh đầy đủ bản chất của một cấu thành cụ thể mà pháp lý gọi là tội phạm hoàn thành. Do đó, khi xuất hiện các tình tiết mới làm thay đổi hoặc bổ sung các dấu hiệu phù hợp với các yếu tố cấu thành tội phạm khác, chính khi đó, tội phạm ban đầu sẽ được chuyển hóa thành tội danh mới. Đối với trường hợp tội phạm đã hoàn thành hoặc chưa đạt đã hoàn thành, sẽ không xuất hiện trường hợp chuyển hóa tội danh khác, vì khi đó, các tình tiết mới có liên quan sẽ không còn ý nghĩa làm thay đổi bản chất của tội phạm nên không thể chuyển thành tội danh mới.

Thứ ba, các tình tiết có thể làm chuyển hóa tội danh rất đa dạng, bao gồm: (i) Những tình tiết làm thay đổi khách thể tội phạm dẫn đến chuyển hóa tội danh; (ii) Những tình tiết mới làm thay đổi các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm đang thực hiện các dấu hiệu mới phù hợp với mặt khách quan của tội phạm khác dẫn đến chuyển hóa tội danh; (iii) Những tình tiết làm thay đổi các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm ban đầu dẫn đến việc chuyển hóa tội danh. Lỗi hoặc động cơ, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, trong nhiều trường hợp khi hành vi vi phạm lúc đầu chỉ là vô ý, nhưng trong diễn biến tiếp theo do nhận thức rõ hành vi nguy hiểm nhưng cố tình thực hiện hậu quả thiệt hại đã xảy ra những tình tiết mới phản ánh thái độ và nhận thức đã tạo ra dấu hiệu lỗi cố ý và đây là cơ sở xuất hiện tội phạm mới. Vì vậy, vấn đề chuyển hóa tội danh phải được đặt ra.

Thứ tư, khi xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh mới (tội danh được chuyển hóa). Ngoài ra, cần phải lưu ý, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh sau khi đã chuyển hóa, chứ không đồng thời truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội danh.

2. Một số vấn đề về chuyển hóa tội danh trong áp dụng pháp luật hình sự

Chuyển hóa tội danh là một trường hợp đặc biệt, vì hiện nay không được quy định trong Bộ luật Hình sự nên cũng còn nhiều vấn đề phát sinh khi xem xét trong trường hợp này. Đặc biệt là có nhiều quan điểm nhận thức và áp dụng khác nhau, cần có sự thống nhất. Sau đây là một số vấn đề cần bàn luận về chuyển hóa tội danh trong pháp luật hình sự ở Việt Nam:

Một là, về cơ sở pháp lý của chuyển hóa tội danh

Mặc dù, trong Bộ luật Hình sự hiện hành không có quy định cụ thể nào về chuyển hóa tội danh. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999 (Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP) đã quy định một nội dung có liên quan đến trường hợp chuyển hóa tội danh. Cụ thể, Mục 6.2 có quy định: “Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”.

Qua phân tích có thể thấy, trong trường hợp này, người phạm tội đã thực hiện một hành vi chiếm đoạt tài sản, có thể chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản. Như vậy, hành vi này đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về mặt pháp lý. Nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản. Hay nói cách khác, tội danh lúc này đã được chuyển hóa từ tội danh ban đầu sang tội cướp tài sản. Quy định này hoàn toàn phù hợp với lý luận về chuyển hóa tội danh như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, ngoài văn bản nói trên, không có văn bản nào có nội dung quy định liên quan đến chuyển hóa tội danh. Do đó, Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP có thể xem là cơ sở pháp lý để áp dụng về chuyển hóa tội danh.

Hai là, những trường hợp chuyển hóa tội danh

Trên thực tế, những trường hợp chuyển hóa tội danh diễn ra không giới hạn tội danh mà đặc biệt phổ biến diễn ra đối với loại tội xâm phạm sở hữu như tội trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản; từ trộm cắp tài sản chuyển hóa thành cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản, cũng có trường hợp trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Tuy vậy, tất cả các trường hợp chỉ được coi là chuyển hóa tội danh khi phải thỏa mãn các dấu hiệu sau:

- Đang thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản;

- Bị phát hiện hoặc chưa bị phát hiện tại thời điểm thực hiện hành vi;

- Người phạm tội dùng vũ lực tấn công nạn nhân hoặc người khác;

- Nhằm mục đích lấy, giữ, chiếm đoạt cho bằng được tài sản[2].

Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP chỉ quy định 03 trường hợp có thể được coi là chuyển hóa tội danh, đó là: (i) Tội cướp giật tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản; (ii) Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản; (iii) Tội trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản. Ngoài 03 trường hợp này, những trường hợp khác dường như không phải là trường hợp chuyển hóa tội danh, mà chỉ là những trường hợp diễn biến của hành vi phạm tội có sự thay đổi trong quá trình người phạm tội thực hiện tội phạm.

Ba là, phân biệt chuyển hóa tội danh với tình tiết hành hung để tẩu thoát

Theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP, để phân biệt chuyển hóa tội danh với tình tiết hành hung để tẩu thoát, cần dựa vào những căn cứ sau:

(i) Chuyển hóa tội danh phải có dấu hiệu giành lại tài sản giữa người phạm tội với người bị hại hoặc người khác. Hành hung để tẩu thoát thì không có dấu hiệu giành lại tài sản.

(ii) Chuyển hóa tội danh là trường hợp phạm tội độc lập, tội danh được thay đổi sang tội danh mới, tội danh cũ mất đi. Hành hung để tẩu thoát là một tình tiết định khung hình phạt, không cấu thành tội mới.

(iii) Mục đích của người phạm tội trong chuyển hóa tội danh khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản. Mục đích của người có hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... trong hành hung để tẩu thoát là nhằm tẩu thoát chứ không nhằm chiếm đoạt cho được tài sản.

Bốn là, một số điểm cần chú ý trong trường hợp chuyển hóa tội danh

(i) Trong trường hợp người phạm tội dùng vũ lực tấn công người bị hại hoặc người khác khiến người đó chết hoặc gây thương tích cho họ nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì tùy từng trường hợp xem xét truy cứu trách nhiệm theo nguyên tắc phạm nhiều tội hoặc thêm những tình tiết định khung tăng nặng khác.

(ii) Cần phân biệt giữa trường hợp chuyển hóa tội danh trong luật hình sự với trường hợp thay đổi tội danh trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. Bản chất của trường hợp chuyển hóa tội danh trong luật hình sự là trường hợp định tội danh theo hành vi phù hợp theo hành vi phạm tội đã được thực hiện. Đối với trường hợp thay đổi tội danh trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự được quy định tại Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, theo đó: “Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra; ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định còn tội phạm khác chưa bị khởi tố”. Với quy định này, khi có căn cứ xác định tội danh đã khởi tố không đúng, cơ quan có thẩm quyền đã khởi tố phải ra quyết định thay đổi quyết định đã khởi tố trước đó. Như vậy, bản chất của hai trường hợp này là hoàn toàn khác nhau.

3. Một số lưu ý khi áp dụng pháp luật hình sự để chuyển hóa tội danh trong thực tiễn

Thứ nhất, trong diễn biến tội phạm, người phạm tội có hành vi mới có liên quan đến tội phạm đang thực hiện nhưng không có dấu hiệu chuyển hóa tội danh mà hành vi đó cấu thành tội độc lập, trường hợp này được coi là phạm nhiều tội. Chẳng hạn, một người giật dây chuyền vàng của người khác rồi bỏ chạy, khi bắt kịp, đối tượng bỏ dây truyền vào túi quần và rút dao giấu trong người lao tới đâm nạn nhân tử vong rồi tẩu thoát, trường hợp này phạm tội độc lập giết người và cướp tài sản.

Thứ hai, trường hợp hành vi phạm tội tuy người phạm tội có hành vi khác liên quan nhưng hành vi mới không làm thay đổi tội phạm đã thực hiện, nhưng cũng không có dấu hiệu để xác định một tội phạm độc lập, trường hợp này có thể được xem là tình tiết định khung tăng nặng hoặc chịu trách nhiệm pháp lý riêng biệt khác. Chẳng hạn, một người trộm tài sản bị người khác truy đuổi nên đối tượng dùng đá ném lại gây thương tích cho người truy đuổi nhưng thương tích 3%. Trường hợp cố ý gây thương tích không đủ cấu thành tội phạm độc lập và cũng không đủ dấu hiệu chuyển hóa tội danh.

Thứ ba, một số trường hợp người phạm tội đã thực hiện nhiều hành vi khách quan nhưng người phạm tội hướng đến một mục đích duy nhất xác định được và khi đó tính chất của các hành vi không thể tách rời nhau và được quy định trong một cấu thành của một tội phạm nhất định, không có chuyển hóa tội danh trong trường hợp này. Chẳng hạn, một người mua ma túy, dùng xe vận chuyển về nhà, đem cất giấu trong phòng nhằm để sử dụng dần hoặc làm giấy tờ giả để đi lừa đảo.

Thứ tư, vấn đề chuyển hóa tội danh trong các vụ án đồng phạm với vai trò của những người đồng phạm là khác nhau, đối với người thực hành thì vấn đề chuyển hóa tội danh hay không phải có đủ các căn cứ như đã nghiên cứu ở trên. Còn đối với vai trò đồng phạm khác thì phải xem xét đến yếu tố nhận thức, thái độ giữa người đồng phạm đó với người thực hiện tội phạm để xác định có phải chịu trách nhiệm đối với tội được chuyển hóa hay không.

TS. Bùi Đức Hứa
Đại học Cảnh sát nhân dân



[1]. Hồ Quân, Vấn đề chuyển hóa tội phạm trong một số trường hợp

[2]. Hồ Quân, Vấn đề chuyển hóa tội phạm trong một số trường hợp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền tiếp cận công lý của công dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế được xác định là một mục tiêu trọng tâm. Trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu, cầu nối đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.
Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí, trong đó đã thể chế hóa các chính sách về trợ cấp hưu trí xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là những người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo không được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025. Luật đã nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.
Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Quy định pháp luật về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý, là chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người yếu thế trong xã hội, trong đó có người khuyết tật.
Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Áp dụng thống nhất chuẩn nghề nghiệp nhà giáo trong cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập

Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật Nhà giáo năm 2025 nhằm xác lập vị trí pháp lý đầy đủ cho nhà giáo trong cả cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi