Chủ nhật 15/06/2025 18:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vướng mắc, bất cập của quy định về “phân cấp, ủy quyền” theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương

Ngày 19/6/2015, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện, ngày 22/11/2019, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, theo đó, một trong những nội dung được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn đó là quy định về “phân cấp cho chính quyền địa phương và ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương”. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng như Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 trong thực tiễn vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
1. Chủ thể của việc phân cấp và ủy quyền
1.1. Về chủ thể của việc phân cấp
Tại khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, chủ thể phân cấp là cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, tuy nhiên không phải mọi cơ quan nhà nước ở địa phương đều có thể thực hiện việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình vì việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)[1]. Trong khi đó, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, chỉ có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp được ban hành văn bản QPPL (trong đó, HĐND và UBND cấp huyện, cấp xã chỉ ban hành văn bản QPPL trong trường hợp được Luật, Nghị quyết của Quốc hội giao). Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì chủ thể được phân cấp bao gồm chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước cấp dưới. Trong thực tế, trên cơ sở chức năng và vị trí pháp lý của HĐND và UBND theo quy định pháp luật thì cơ quan được phân cấp thường là UBND để đảm bảo việc triển khai thực hiện nhiệm vụ được nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên, để xác định chủ thể được phân cấp theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng còn nhiều vướng mắc, bấp cập.
Xét nội dung “cơ quan nhà nước ở địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới” thì có thể thấy khái niệm “cơ quan nhà nước ở địa phương” ở đây là một khái niệm rộng và việc xác định “cơ quan nhà nước ở địa phương” là những nhóm cơ quan cụ thể nào thì sẽ phụ thuộc vào các quy định pháp luật khác (chẳng hạn như khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015). Bên cạnh đó, việc xác định đối tượng được phân cấp sẽ là chính quyền địa phương cấp dưới và cơ quan nhà nước cấp dưới hay chính quyền địa phương (bao gồm chính quyền địa phương cùng cấp với cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện hiện việc phân cấp) và cơ quan nhà nước cấp dưới cũng chưa đảm bảo thống nhất. Đồng thời, hiện nay cũng chưa có quy định, văn bản nào hướng dẫn cụ thể “cơ quan nhà nước cấp dưới” là cơ quan nào hay việc xác định “cơ quan nhà nước cấp dưới” dựa trên những tiêu chí nào. Trên thực tế, có một số luật chuyên ngành khi phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương còn quy định liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, tuy nhiên, giữa nội dung do luật chuyên ngành và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định vẫn còn có sự chưa thống nhất. Chẳng hạn như:
- Tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định:
“7. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách địa phương, bao gồm cả vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên, các nguồn vốn hợp pháp của địa phương thuộc cấp mình quản lý, trừ dự án quy định tại khoản 4 Điều này.
Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định việc giao cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án quy định tại khoản này phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển, khả năng tài chính và đặc điểm cụ thể của địa phương”.
- Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định:
+ “2. Căn cứ quy định của Luật này, phân cấp của Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc quản lý, sử dụng tài sản công thuộc phạm vi quản lý của địa phương” (tại khoản 2 Điều 17).
+ “5. Căn cứ quy định của cơ quan, người có thẩm quyền tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, sau khi có ý kiến thống nhất của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định áp dụng tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản chuyên dùng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều này (khoản 5 Điều 26)”.
- Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản công, quy định:
+ “c) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định điều chuyển tài sản công giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Trường hợp phân cấp thẩm quyền quyết định điều chuyển tài sản công thì thực hiện theo nguyên tắc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính quyết định điều chuyển tài sản công giữa các sở, ngành thuộc địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp huyện, cấp xã, giữa các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. (tại điểm c khoản 1 Điều 20).
+ “d) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định bán tài sản công thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Trường hợp phân cấp thẩm quyền quyết định bán tài sản là trụ sở làm việc, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định” (điểm d khoản 2 Điều 22).
Qua những quy định này có thể thấy, việc sử dụng thuật ngữ “phân cấp” hay “ủy quyền” chưa thống nhất. Chẳng hạn như thuật ngữ “giao” tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2019 có nghĩa là “phân cấp”, “ủy quyền” hay một ý nghĩa khác. Theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Nghị định 151/2017/NĐ-CP thì chủ thể được phân cấp có thể là “Chủ tịch UBND cấp tỉnh” hoặc “Sở Tài chính”, nếu đối chiếu với quy định của Luật năm 2015 thì chủ thể này có thuộc nhóm chủ thể được phân cấp hay không cũng là một vấn đề mà còn nhiều quan điểm khác nhau.
1.2. Về chủ thể của việc ủy quyền
Tại khoản 7 Điều 2 Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản”.
Về cơ bản, Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã quy định về chủ thể ủy quyền và chủ thể được ủy quyền rõ ràng, cụ thể hơn so với Luật năm 2015, đồng thời Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 cũng đã giới hạn chủ thể được ủy quyền nhằm đảm bảo việc ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chặt chẽ, hiệu quả hơn, tránh việc ủy quyền tràn lan trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, liên quan đến chủ thể ủy quyền cũng cần phải làm rõ khái niệm “cơ quan hành chính nhà nước cấp trên” là cơ quan hay nhóm cơ quan cụ thể nào.
2. Phân cấp và ủy quyền
- Tại khoản 4 Điều 13 Luật năm 2015, quy định: “Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp”.
- Tại khoản 3 Điều 14 Luật năm 2015, quy định: “Cơ quan, tổ chức được ủy quyền phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền”.
Như vậy, trong trường hợp phân cấp thì cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp. Tuy nhiên, khi thực hiện việc phân cấp tiếp thì cơ quan phân cấp tiếp cũng phải là cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quy định nội dung phân cấp để đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật năm 2015; đồng thời “sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp” cũng phải được thể hiện bằng văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật năm 2015 và Điều 12 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tuy nhiên, đối với trường hợp ủy quyền thì Luật năm 2015 chỉ quy định “Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền”, vậy trường hợp cá nhân nhận ủy quyền (chẳng hạn như trường hợp: Phó Chủ tịch UBND hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND được Chủ tịch UBND cùng cấp ủy quyền) thì có được ủy quyền tiếp cho cá nhân khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được người có thẩm quyền ủy quyền hay không, vấn đề này Luật năm 2015 cũng như Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 chưa đề cập đến.
3. Xác định căn cứ pháp lý để phân cấp hoặc ủy quyền
Trên thực tế, khi áp dụng quy định về cơ chế phân cấp hoặc ủy quyền vẫn tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng: Quy định về phân cấp, ủy quyền theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương là quy định chung về thẩm quyền, trách nhiệm của UBND và Chủ tịch UBND các cấp, để thực hiện việc phân cấp hoặc ủy quyền thì phải được quy định cụ thể tại văn bản pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, luồng quan điểm thứ hai cho rằng: Luật Tổ chức chính quyền địa phương là cơ sở pháp lý cụ thể để các chủ thể thực hiện việc phân cấp hoặc ủy quyền.
Hiện nay, một số văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về việc phân cấp, ủy quyền tuy nhiên đây chỉ là một số ít văn bản có quy định cụ thể về việc phân cấp, ủy quyền còn phần lớn không có quy định liên quan đến việc phân cấp, ủy quyền trong văn bản.
Chẳng hạn như: Tại khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cấp phó hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn quyết định đầu tư đối với dự án nhóm B, nhóm C thuộc cấp tỉnh quản lý, trừ dự án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 của Luật này”. Đồng thời, Luật Đầu tư công năm 2019 cũng không có quy định ngoài trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật này thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh không được ủy quyền.
Như vậy, khi áp dụng Luật năm 2015 và Luật Đầu tư công năm 2019 sẽ có sự không thống nhất như đã trình bày hai luồng quan điểm áp dụng nêu trên. Tuy nhiên, có một vấn đề là nếu áp dụng theo luồng quan điểm thứ hai thì sẽ dẫn đến cách hiểu là những quy định như khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 là không cần thiết vì nếu không có khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 thì Chủ tịch UBND tỉnh vẫn căn cứ Luật năm 2015 để ủy quyền được.
4. Hình thức văn bản phân cấp, ủy quyền
Hình thức văn bản phân cấp được Luật năm 2015 quy định rõ là “văn bản QPPL”, tuy nhiên Luật năm 2015 chỉ quy định việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản, không quy định cụ thể hình thức văn bản là văn bản QPPL hay văn bản hành chính và nếu trường hợp là văn bản hành chính thì cụ thể là loại văn bản nào. Trên thực tế, việc ủy quyền được thể hiện bằng văn bản hành chính và dưới dạng Quyết định, Công văn hoặc Thông báo, trong đó phổ biến nhất là dưới dạng Quyết định. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, một số cơ quan, đơn vị yêu cầu việc ủy quyền phải bằng “Quyết định cá biệt”, không chấp thuận các hình thức văn bản ủy quyền khác.
Kết luận: Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII đã khẳng định “Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế”. Để thực hiện hiệu quả nội dung này thì trước hết phải hoàn thiện các chế định có liên quan về phân cấp, phân quyền, theo hệ thống pháp luật về phân cấp, phân quyền phải đồng bộ đồng thời phải phù hợp với đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn./.

ThS. Dương Thị Thân Thương
Phân hiệu Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk


[1] Khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.Ngày 19/6/2015, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Sau hơn 03 năm triển khai thực hiện, ngày 22/11/2019, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 8 thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020, theo đó, một trong những nội dung được sửa đổi, bổ sung nhằm cụ thể, rõ ràng và hoàn thiện hơn đó là quy định về “phân cấp cho chính quyền địa phương và ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương”. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng như Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 trong thực tiễn vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
1. Chủ thể của việc phân cấp và ủy quyền
1.1. Về chủ thể của việc phân cấp
Tại khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy, chủ thể phân cấp là cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, tuy nhiên không phải mọi cơ quan nhà nước ở địa phương đều có thể thực hiện việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình vì việc phân cấp phải được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)[1]. Trong khi đó, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, chỉ có Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp được ban hành văn bản QPPL (trong đó, HĐND và UBND cấp huyện, cấp xã chỉ ban hành văn bản QPPL trong trường hợp được Luật, Nghị quyết của Quốc hội giao). Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì chủ thể được phân cấp bao gồm chính quyền địa phương và cơ quan nhà nước cấp dưới. Trong thực tế, trên cơ sở chức năng và vị trí pháp lý của HĐND và UBND theo quy định pháp luật thì cơ quan được phân cấp thường là UBND để đảm bảo việc triển khai thực hiện nhiệm vụ được nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên, để xác định chủ thể được phân cấp theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng còn nhiều vướng mắc, bấp cập.
Xét nội dung “cơ quan nhà nước ở địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới” thì có thể thấy khái niệm “cơ quan nhà nước ở địa phương” ở đây là một khái niệm rộng và việc xác định “cơ quan nhà nước ở địa phương” là những nhóm cơ quan cụ thể nào thì sẽ phụ thuộc vào các quy định pháp luật khác (chẳng hạn như khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015). Bên cạnh đó, việc xác định đối tượng được phân cấp sẽ là chính quyền địa phương cấp dưới và cơ quan nhà nước cấp dưới hay chính quyền địa phương (bao gồm chính quyền địa phương cùng cấp với cơ quan nhà nước ở địa phương thực hiện hiện việc phân cấp) và cơ quan nhà nước cấp dưới cũng chưa đảm bảo thống nhất. Đồng thời, hiện nay cũng chưa có quy định, văn bản nào hướng dẫn cụ thể “cơ quan nhà nước cấp dưới” là cơ quan nào hay việc xác định “cơ quan nhà nước cấp dưới” dựa trên những tiêu chí nào. Trên thực tế, có một số luật chuyên ngành khi phân quyền cho mỗi cấp chính quyền địa phương còn quy định liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền, tuy nhiên, giữa nội dung do luật chuyên ngành và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định vẫn còn có sự chưa thống nhất. Chẳng hạn như:
- Tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định:
“7. Hội đồng nhân dân các cấp quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án nhóm B, nhóm C sử dụng vốn ngân sách địa phương, bao gồm cả vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách cấp trên, các nguồn vốn hợp pháp của địa phương thuộc cấp mình quản lý, trừ dự án quy định tại khoản 4 Điều này.
Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng nhân dân quyết định việc giao cho Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án quy định tại khoản này phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển, khả năng tài chính và đặc điểm cụ thể của địa phương”.
- Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định:
+ “2. Căn cứ quy định của Luật này, phân cấp của Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc quản lý, sử dụng tài sản công thuộc phạm vi quản lý của địa phương” (tại khoản 2 Điều 17).
+ “5. Căn cứ quy định của cơ quan, người có thẩm quyền tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, sau khi có ý kiến thống nhất của Thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định áp dụng tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản chuyên dùng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý, trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều này (khoản 5 Điều 26)”.
- Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản công, quy định:
+ “c) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định điều chuyển tài sản công giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Trường hợp phân cấp thẩm quyền quyết định điều chuyển tài sản công thì thực hiện theo nguyên tắc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Giám đốc Sở Tài chính quyết định điều chuyển tài sản công giữa các sở, ngành thuộc địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp huyện, cấp xã, giữa các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. (tại điểm c khoản 1 Điều 20).
+ “d) Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp thẩm quyền quyết định bán tài sản công thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Trường hợp phân cấp thẩm quyền quyết định bán tài sản là trụ sở làm việc, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định” (điểm d khoản 2 Điều 22).
Qua những quy định này có thể thấy, việc sử dụng thuật ngữ “phân cấp” hay “ủy quyền” chưa thống nhất. Chẳng hạn như thuật ngữ “giao” tại khoản 7 Điều 17 Luật Đầu tư công năm 2019 có nghĩa là “phân cấp”, “ủy quyền” hay một ý nghĩa khác. Theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và Nghị định 151/2017/NĐ-CP thì chủ thể được phân cấp có thể là “Chủ tịch UBND cấp tỉnh” hoặc “Sở Tài chính”, nếu đối chiếu với quy định của Luật năm 2015 thì chủ thể này có thuộc nhóm chủ thể được phân cấp hay không cũng là một vấn đề mà còn nhiều quan điểm khác nhau.
1.2. Về chủ thể của việc ủy quyền
Tại khoản 7 Điều 2 Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản”.
Về cơ bản, Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã quy định về chủ thể ủy quyền và chủ thể được ủy quyền rõ ràng, cụ thể hơn so với Luật năm 2015, đồng thời Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 cũng đã giới hạn chủ thể được ủy quyền nhằm đảm bảo việc ủy quyền cho cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chặt chẽ, hiệu quả hơn, tránh việc ủy quyền tràn lan trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, liên quan đến chủ thể ủy quyền cũng cần phải làm rõ khái niệm “cơ quan hành chính nhà nước cấp trên” là cơ quan hay nhóm cơ quan cụ thể nào.
2. Phân cấp và ủy quyền
- Tại khoản 4 Điều 13 Luật năm 2015, quy định: “Cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp”.
- Tại khoản 3 Điều 14 Luật năm 2015, quy định: “Cơ quan, tổ chức được ủy quyền phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền”.
Như vậy, trong trường hợp phân cấp thì cơ quan nhà nước ở địa phương có thể phân cấp tiếp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp. Tuy nhiên, khi thực hiện việc phân cấp tiếp thì cơ quan phân cấp tiếp cũng phải là cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quy định nội dung phân cấp để đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật năm 2015; đồng thời “sự đồng ý của cơ quan nhà nước đã phân cấp” cũng phải được thể hiện bằng văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật năm 2015 và Điều 12 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Tuy nhiên, đối với trường hợp ủy quyền thì Luật năm 2015 chỉ quy định “Cơ quan, tổ chức nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền”, vậy trường hợp cá nhân nhận ủy quyền (chẳng hạn như trường hợp: Phó Chủ tịch UBND hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND được Chủ tịch UBND cùng cấp ủy quyền) thì có được ủy quyền tiếp cho cá nhân khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được người có thẩm quyền ủy quyền hay không, vấn đề này Luật năm 2015 cũng như Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2019 chưa đề cập đến.
3. Xác định căn cứ pháp lý để phân cấp hoặc ủy quyền
Trên thực tế, khi áp dụng quy định về cơ chế phân cấp hoặc ủy quyền vẫn tồn tại hai luồng quan điểm khác nhau. Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng: Quy định về phân cấp, ủy quyền theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương là quy định chung về thẩm quyền, trách nhiệm của UBND và Chủ tịch UBND các cấp, để thực hiện việc phân cấp hoặc ủy quyền thì phải được quy định cụ thể tại văn bản pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, luồng quan điểm thứ hai cho rằng: Luật Tổ chức chính quyền địa phương là cơ sở pháp lý cụ thể để các chủ thể thực hiện việc phân cấp hoặc ủy quyền.
Hiện nay, một số văn bản pháp luật chuyên ngành có quy định về việc phân cấp, ủy quyền tuy nhiên đây chỉ là một số ít văn bản có quy định cụ thể về việc phân cấp, ủy quyền còn phần lớn không có quy định liên quan đến việc phân cấp, ủy quyền trong văn bản.
Chẳng hạn như: Tại khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định: “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cấp phó hoặc người đứng đầu cơ quan chuyên môn quyết định đầu tư đối với dự án nhóm B, nhóm C thuộc cấp tỉnh quản lý, trừ dự án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 35 của Luật này”. Đồng thời, Luật Đầu tư công năm 2019 cũng không có quy định ngoài trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 84 Luật này thì Chủ tịch UBND cấp tỉnh không được ủy quyền.
Như vậy, khi áp dụng Luật năm 2015 và Luật Đầu tư công năm 2019 sẽ có sự không thống nhất như đã trình bày hai luồng quan điểm áp dụng nêu trên. Tuy nhiên, có một vấn đề là nếu áp dụng theo luồng quan điểm thứ hai thì sẽ dẫn đến cách hiểu là những quy định như khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 là không cần thiết vì nếu không có khoản 3 Điều 84 Luật Đầu tư công năm 2019 thì Chủ tịch UBND tỉnh vẫn căn cứ Luật năm 2015 để ủy quyền được.
4. Hình thức văn bản phân cấp, ủy quyền
Hình thức văn bản phân cấp được Luật năm 2015 quy định rõ là “văn bản QPPL”, tuy nhiên Luật năm 2015 chỉ quy định việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản, không quy định cụ thể hình thức văn bản là văn bản QPPL hay văn bản hành chính và nếu trường hợp là văn bản hành chính thì cụ thể là loại văn bản nào. Trên thực tế, việc ủy quyền được thể hiện bằng văn bản hành chính và dưới dạng Quyết định, Công văn hoặc Thông báo, trong đó phổ biến nhất là dưới dạng Quyết định. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật, một số cơ quan, đơn vị yêu cầu việc ủy quyền phải bằng “Quyết định cá biệt”, không chấp thuận các hình thức văn bản ủy quyền khác.
Kết luận: Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khóa XII đã khẳng định “Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế”. Để thực hiện hiệu quả nội dung này thì trước hết phải hoàn thiện các chế định có liên quan về phân cấp, phân quyền, theo hệ thống pháp luật về phân cấp, phân quyền phải đồng bộ đồng thời phải phù hợp với đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn./.

ThS. Dương Thị Thân Thương
Phân hiệu Đại học Luật Hà Nội tại Đắk Lắk


[1] Khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm