Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nhận diện một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong hoạt động của Tòa án nhân dân

Bài viết về thực trạng những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong hoạt động của Tòa án nhân dân, từ đó, tác giả đã đề ra giải pháp, kiến nghị khắc phục để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

1. Thực trạng một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong hoạt động của Tòa án nhân dân[1]

Ngày 25/5/2023, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV, khi thảo luận tại tổ về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước, khi phát biểu tại tổ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà nêu về tình trạng cán bộ, công chức, viên chức làm việc cầm chừng, đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ. Đây là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị. Bởi những biểu hiện đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức đã vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm các quy định của Luật Chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Cán bộ, công chức[2].

Trong hoạt động của Tòa án, tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, tại phiên trả lời chất vấn Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình, đại biểu Trịnh Ngọc Phương (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh) đã nêu lên một thực trạng là: Hằng năm ngày 30 tháng 9 là ngày kết thúc năm công tác của Tòa án vì vậy các Tòa án đua nhau xét xử, xét xử dồn dập để có thành tích, để không có án tồn; người dân nộp đơn vào thời điểm này thì khó được Tòa nhận, thậm chí là không nhận. Theo đó, người tiến hành tố tụng: Thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát, người tham gia tố tụng kể cả luật sư cũng bị động theo… dẫn đến vi phạm tố tụng, chất lượng xét xử không tốt[3]. Thực trạng Tòa án không xử lý đơn khởi kiện đúng hạn luật định, hạn chế thụ lý vụ án để tăng tỷ lệ giải quyết án là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị như Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã nêu.

Ngoài ra, còn một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị như:

(i) Tình trạng một số thẩm phán “ngại” giải quyết các vụ án có tính chất phức tạp nên tìm cách hướng dẫn, giải thích pháp luật theo hướng đương sự rút đơn khởi kiện để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Sau khi Tòa án đình chỉ, vụ án không được giải quyết dứt điểm nên đương sự sẽ khởi kiện lại và được phân công cho thẩm phán khác giải quyết. Thẩm phán hướng dẫn, giải thích pháp luật cho đương sự rút đơn trước đó sẽ không được phân công vụ án đó nữa[4]. Mục đích của việc hướng dẫn, giải thích pháp luật cho đương sự rút đơn khởi kiện là để “né tránh trách nhiệm giải quyết án khó”, việc giải quyết các vụ án phức tạp sẽ làm tăng nguy cơ tỷ lệ án hủy, sửa của cá nhân thẩm phán đó. Mặt khác, trong công tác giải quyết các vụ án hành chính, một bộ phận nhỏ các thẩm phán còn tư tưởng nể nang, ngại va chạm đến cơ quan nhà nước dẫn đến tỷ lệ án bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan còn cao[5].

(ii) Tình trạng chậm giải quyết các vụ án, để các vụ án kéo dài, quá hạn theo quy định của pháp luật dẫn đến cuối năm khi bình xét thi đua, thẩm phán có các loại vụ án này sẽ bị đánh giá phân loại cán bộ, công chức là chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.

(iii) Tình trạng do hạn chế về năng lực nên có một bộ phận nhỏ thẩm phán để án bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan cao hơn mức quy định và một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị khác.

2. Nguyên nhân

Nguyên nhân của thực trạng xử lý đơn khởi kiện quá hạn luật định, hạn chế thụ lý vụ án là do các thẩm phán, các Tòa án vì bị áp lực về công tác thi đua khen thưởng, công tác tái bổ nhiệm của thẩm phán nên “chạy theo thành tích”“dùng thủ thuật” việc tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện để quá hạn, hạn chế thụ lý vụ án của người dân để giảm lượng án phải thụ lý giải quyết, nâng cao tỷ lệ án đã giải quyết, đảm bảo các chỉ tiêu về tỷ lệ giải quyết án của từng thẩm phán và Tòa án.

Cũng vì áp lực thi đua, khen thưởng nên một số thẩm phán sợ tỷ lệ án hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan vượt mức quy định[6] dẫn đến mất thi đua, khen thưởng và không được tái bổ nhiệm[7] nên một bộ phận thẩm phán sợ trách nhiệm nên tránh né, không dám giải quyết các vụ án có tính chất phức tạp. Minh chứng cho thực trạng này là tình trạng làm khống 57 hồ sơ vụ án của bà Bùi Thị Dung - thẩm phán sơ cấp Tòa án nhân dân huyện Đắk Song: Năm 2016, bà Dung có tỷ lệ án hủy cao hơn 1,16%, ảnh hưởng đến việc bổ nhiệm thẩm phán vào năm 2017 nên bà Dung đã gian dối tự viết đơn kiện, ứng nộp án phí 57 hồ sơ để giải quyết theo hướng nguyên đơn rút đơn, tăng tỷ lệ án xử đạt để đủ điều kiện được bổ nhiệm[8].

Một bộ phận nhỏ thẩm phán còn thiếu bản lĩnh chính trị còn tư tưởng nể nang, ngại va chạm, hạn chế về năng lực nên dẫn đến việc giải quyết án bị kéo dài, quá hạn luật định; chất lượng xét xử còn hạn chế (tỷ lệ án bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan còn vượt mức quy định).

Mặt khác, số vụ việc các thẩm phán và các Tòa án phải giải quyết ngày càng tăng cao, làm cho công tác của một số thẩm phán và Tòa án trở nên quá tải. Số lượng án phải giải quyết của từng thẩm phán trong năm công tác một số nơi cao hơn gấp hai hoặc ba lần so với mức quy định (mức quy định là mỗi thẩm phán giải quyết trong năm là 72 vụ việc).

Một số quy định của pháp luật về một số tiêu chí thi đua và xem xét xử lý trách nhiệm của những người giữ chức danh tư pháp còn xung đột nhau, gây ảnh hưởng đến tâm lý của thẩm phán trong thi hành công vụ.

3. Một số khó khăn, vướng mắc dẫn đến tình trạng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trong hoạt động của Tòa án nhân dân

3.1. Quy định về cách tính tỷ lệ án đã giải quyết

Hiện nay, cách tính tỷ lệ án đã giải quyết các loại án là tỷ lệ giữa tổng số các loại án đã được giải quyết trong năm công tác (bao gồm án xét xử, hòa giải thành, đình chỉ) trên tổng số án đã thụ lý trong năm.

Ví dụ: Mỗi tháng Tòa án thụ lý 10 vụ, trong một năm thụ lý tổng cộng là 120 vụ. Trong đó, có 80 vụ quá thời hạn chuẩn bị xét xử (đã được thụ lý trên 04 tháng); có 40 vụ mới thụ lý, dưới 04 tháng, trong thời hạn chuẩn bị xét xử.

Tòa án đã giải quyết được 90 vụ, trong đó đã giải quyết quá thời hạn chuẩn bị xét xử là 70 vụ, còn lại đã giải quyết những vụ mới thụ lý, trong thời hạn chuẩn bị xét xử là 20 vụ.

Khi đó, tỷ lệ án đã giải quyết của Tòa án trong năm sẽ là: (90 vụ đã giải quyết)/(120 vụ đã thụ lý) x 100% = 75%.

Do quy định này, nên phần lớn các Tòa án đều hạn chế thụ lý các vụ án vào những tháng cuối năm, do sợ bị ảnh hưởng đến việc bình xét thi đua khen thưởng. Giả sử trong 04 tháng cuối năm do Tòa án hạn chế thụ lý nên không thụ lý thì khi đó tổng lượng án phải giải quyết sẽ là 120 - 40 = 80 vụ. Khi đó tỷ lệ án đã giải quyết của Tòa án sẽ là (70/80) x 100% = 87,5%, đạt chỉ tiêu đã đề ra là từ 85% trở lên. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến thực trạng Tòa án hạn chế thụ lý án vào những tháng cuối năm.

Tuy nhiên, nếu thẩm phán, Tòa án không thụ lý án vào những tháng cuối năm sẽ vi phạm thời hạn về Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh cán Tòa án nhân dân tối cao về ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân (Quyết định số 120/QĐ-TANDTC). Cụ thể như sau:

Thẩm phán bị xử lý trách nhiệm bằng hình thức kiểm điểm trước cơ quan, đơn vị khi thẩm phán có một trong những hành vi vi phạm trong việc xử lý đơn, thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ, việc:

- Xử lý đơn khởi kiện để quá thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 191 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 121 Luật Tố tụng hành chính;

- Xử lý đơn yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự để quá thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn quy định tại Điều 363 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Thụ lý vụ, việc chậm quá thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày đủ điều kiện thụ lý theo quy định tại Điều 195; khoản 4 Điều 363 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 125 Luật Tố tụng hành chính.

Như vậy, nếu như hạn chế thụ lý án vào những tháng cuối năm thì thẩm phán đều vi phạm thời hạn xử lý đơn và đều bị xử lý trách nhiệm theo quy định. Ngược lại, nếu không hạn chế thụ lý giải quyết án để không vi phạm thời hạn xử lý đơn và không bị xử lý trách nhiệm theo quy định thì tỷ lệ án đã giải quyết của thẩm phán, Tòa án không đạt chỉ tiêu. Do đó, cách tính tỷ lệ án đã giải quyết như hiện nay đã dẫn đến các hành vi vi phạm theo một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị của từng thẩm phán và Tòa án.

3.2. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan theo quy định tại khoản 7 Điều 9 Quyết định số 120/QĐ-TANDTC chưa phù hợp

Khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án có quy định: “Hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan; bảo đảm tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không vượt quá 1,5% tổng số các loại án”.

Mục 2.4 của Chỉ thị số 01/2020/CT-CA ngày 09/01/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc triển khai, tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong tâm công tác năm 2020 của các Tòa án có quy định: “Bảo đảm tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không vượt quá 1,5 tổng các loại án”.

Để hướng dẫn cách tính tỷ lệ án hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan, ngày 15/12/2020, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 356/TANDTC-TĐKT. Tại khoản 1 Mục III Công văn có hướng dẫn: Báo cáo chất lượng xét xử: “Tổng” số bản án, quyết định bị (hủy, sửa) do nguyên nhân chủ quan “chia 2” không vượt quá “1,5%” tổng số các vụ (án, việc) đã giải quyết, xét xử trong năm thi đua “12 tháng”.

Trong khi đó, nếu thẩm phán có tỷ lệ án bị hủy do nguyên nhân chủ quan từ 1,16% trở lên đều bị xử lý trách nhiệm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC.

Ví dụ: Trong một năm công tác hoặc một nhiệm kỳ, thẩm phán A đã giải quyết 100 vụ, bị hủy 02 vụ do nguyên nhân chủ quan, không bị sửa vụ nào với nguyên nhân chủ quan. Khi đó, tỷ lệ án bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan được tính để xét thi đua từ năm 2020 trở về sau là: ((02+00)/2)/100 x 100% = 01%. Khi đó, thẩm phán vẫn được xét thi đua, khen thưởng bình thường.

Còn tỷ lệ án bị hủy do nguyên nhân chủ quan để làm cơ sở xử lý trách nhiệm đối với thẩm phán và làm cơ sở có tái bổ nhiệm đối với thẩm phán hay không được tính là: 02/100 x 100% = 02%. Khi đó, thẩm phán sẽ bị xử lý trách nhiệm theo khoản 7 Điều 10 Quyết định số 120/QĐ-TANDTC và kèm theo đó sẽ không xét thi đua, khen thưởng đối với thẩm phán đã vi phạm.

4. Một số giải pháp, kiến nghị

Một là, cần thay đổi cách tính tỷ lệ án đã giải quyết.

Tỷ lệ các loại vụ việc đã giải quyết là tỷ lệ giữa tổng số vụ việc đã giải quyết trên tổng số vụ việc đã thụ lý và có điều kiện giải quyết[9]. Theo đó, tổng số vụ việc đã thụ lý và có điều kiện giải quyết là tổng số vụ việc đã thụ lý giải quyết quá thời hạn chuẩn bị xét xử cộng với số vụ việc đã giải quyết trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Khi đó, việc tính tỷ lệ giải quyết các loại vụ việc sẽ được tính như sau:

Tỷ lệ án đã giải quyết theo dẫn chứng cứ = (Tổng số các loại vụ việc đã giải quyết (90)/tổng số các loại vụ việc đã được thụ lý và có điều kiện (80+20 = 100)) x 100% = 90%.

Với cách tính này sẽ đảm bảo cho các thẩm phán xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo đúng thời hạn luật định, không bị xử lý trách nhiệm theo Quyết định số 120/QĐ-TANDTC nhưng tỷ lệ giải quyết các loại vụ việc vẫn đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra; tháo gỡ việc thẩm phán bị đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ, giảm tải áp lực đối với thẩm phán và chấm dứt tình trạng các vi phạm dưới biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của thẩm phán trong thời gian qua. Mặt khác, cách tính này góp phần thúc đẩy các thẩm phán tập trung giải quyết các loại vụ việc tồn đọng, kéo dài vì nếu không giải quyết sẽ bị tính là án tồn…

Hai là, sửa đổi một số quy định của Quyết định số 120/QĐ-TANDTC.

Quyết định số 120/QĐ-TANDTC được ban hành từ năm 2017, trong khi đó, chỉ tiêu và cách tính tỷ lệ án bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan trong công tác xét thi đua, khen thưởng đã được thay đổi từ năm 2020 cho đến nay. Các quy định về xử lý trách nhiệm của thẩm phán trong Quyết định số 120/QĐ-TANDTC chỉ đặt ra tiêu chí tỷ lệ án bị hủy do nguyên nhân chủ quan, không có quy định đối với tỷ lệ án bị sửa do nguyên nhân chủ quan. Nên có thể nói, các quy định này của Quyết định số 120/QĐ-TANDTC đã “lỗi thời” cần phải được sửa đổi để đảm bảo cho thẩm phán an tâm công tác, thực hiện nhiệm vụ của mình.

Ngoài ra, theo tác giả cần tiếp tục tăng cường, kỷ luật công vụ trong các Tòa án nhân dân theo Chỉ thị số 05/2020/CT-CA ngày 28/7/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về tăng cường kỷ cương, kỷ luật công vụ trong Tòa án nhân dân.

Trần Tú Anh & Huỳnh Minh Khánh

Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang


[1] Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và đề ra các giải pháp khắc phục.

[2] https://thanhtra.com.vn/chinh-tri/doi-noi/bo-truong-noi-vu-can-bo-lam-viec-cam-chung-ne-trach-nhiem-la-suy-thoai-khong-the-benh-bao-che-210838.html, truy cập ngày 10/4/2024.

[3] https://tapchitoaan.vn/can-thay-doi-cach-tinh-ty-le-an-giai-quyet, truy cập ngày 10/7/2023.

[4] Khoản 3 Điều 53 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[5] Trích kết quả trả lời chất vấn tại phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XV ngày 20/3/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

[6] Khoản 1 Mục III Công văn số 356/TANDTC-TĐKT ngày 15/12/2020 của Tòa án nhân dân tối cao: Báo cáo chất lượng xét xử: “Tổng” số bản án, quyết định bị (hủy, sửa) do nguyên nhân chủ quan “chia 2” không vượt quá “1,5%” tổng số các vụ (án, việc) đã giải quyết, xét xử trong năm thi đua “12 tháng”.

[7] Khoản 1 Điều 16 Quyết định số 120/QĐ-TANDTC ngày 19/6/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về ban hành quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân.

[8] Trung Tấn – Đình Cương, “Làm khống 57 bộ hồ sơ: Viện KSND tối cao vào cuộc, chánh án nói “không cấu thành tội phạm”, https://tuoitre.vn/lam-khong-57-bo-ho-so-vien-ksnd-toi-cao-vao-cuoc-chanh-an-noi-khong-cau-thanh-toi-pham-20210617143909187.htm , truy cập ngày 14/7/2023.

[9] Án có điều kiện giải quyết là án đã thụ lý và đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử (quá 04 tháng hoặc 06 tháng tùy theo tiêu chí quy định); hoặc án trong thời hạn chuẩn bị xét xử những đã được giải quyết xong.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: