Thứ hai 16/06/2025 12:56
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phạm tội do dùng rượu, bia và trách nhiệm hình sự

Theo đó, để bảo đảm giải quyết thỏa đáng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia và bảo đảm công tác phòng, chống tác hại của rượu, bia, cần hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) về trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia.

Tóm tắt: Bài viết này phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.

Abstract: This article analyzes and evaluates the current situation of Vietnam's criminal law regulations on criminal liability of offenders in the state of alcohol and beer use and proposes to improve legal regulations on this issue.

1. Đặt vấn đề

Ngoài các tác hại về sức khỏe, lạm dụng rượu, bia còn là căn nguyên của nhiều vấn đề xã hội nghiêm trọng khác như bạo lực cá nhân, mất trật tự, an toàn xã hội, tội phạm, phân hóa xã hội và gánh nặng về kinh tế đối với cá nhân, gia đình và toàn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức khỏe, giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác[1].

Pháp luật hình sự ở các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi họ thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của tình trạng này đối với trách nhiệm hình sự, theo tác giả, không chỉ dừng lại ở việc pháp luật hình sự ghi nhận rằng, người phạm tội có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Trên thực tế, rượu, bia là chất kích thích có tác động mạnh đến thần kinh trung ương và nếu lạm dụng quá mức sẽ làm cho người sử dụng không làm chủ được những hành vi, dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng[2]. Sự tác động của việc sử dụng rượu, bia đối với tội phạm ở nhiều khía cạnh: (i) Là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tội phạm (ngay cả đối với trường hợp người phạm tội có ý định phạm tội từ trước khi sử dụng rượu, bia hoặc không); (ii) Do trạng thái tâm lý hưng phấn do sử dụng rượu, bia dẫn đến kích động, khiến cho hành vi phạm tội gây ra hậu quả nguy hiểm đáng kể hơn.

Theo đó, để bảo đảm giải quyết thỏa đáng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia và bảo đảm công tác phòng, chống tác hại của rượu, bia, cần hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự) về trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia.

2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia

Về trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia được Bộ luật Hình sự hiện hành quy định như sau:

Thứ nhất, Điều 13 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Bộ luật Hình sự đã sửa tên của điều luật từ “phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác” (Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 1999) thành “phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác” (Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 2015) và sửa quy định “người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác…” (Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 1999) thành quy định “người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia…”.

Một trong những điều kiện cơ bản của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội là phải có năng lực trách nhiệm hình sự[3], tuy nhiên, nếu họ thực hiện hành vi trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do sử dụng rượu, bia thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo quan điểm lập pháp, thì trường hợp này, người phạm tội mất năng lực nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi do sử dụng bia, rượu là do họ tự đặt mình vào tình trạng trên nên không loại trừ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, trên thực tế, việc say rượu, bia là thói xấu trong xã hội, việc người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm khi rơi vào trạng thái họ có thể lường trước được còn là biểu thị sự nghiêm khắc của xã hội đối với hành vi này.

Ngoài trường hợp say do tự nguyện uống rượu, bia thì thực tế, tình trạng say có thể do bị ép buộc, bị lừa dối hoặc say rượu bệnh lý. Say rượu bệnh lý là chứng loạn tâm thần cấp tính lâm thời, hết sức hiếm, xuất hiện sau khi uống rượu và tiến triển theo kiểu trạng thái ý thức hoàng hôn; rối loạn ý thức phát triển đột ngột, không phụ thuộc vào lượng rượu đã uống; thường thấy sau khi người bệnh dùng một lượng rượu tương đối nhỏ và trước đó không có bệnh cảnh say rượu thông thường nặng. Người bệnh bị mù mờ về ý thức, tri giác về xung quanh và định hướng bị rối loạn, lệch lạc nghiêm trọng; hành vi của họ phần lớn là kích động, công kích; nổi bật lên cảm giác sợ hãi, giận dữ, độc ác; hoang tưởng bị đe dọa, bị theo dõi, các ảo giác và thính giác lẻ tẻ… Người bệnh hoàn toàn không tiếp xúc với xung quanh; có thể có biểu hiện kích động kiểu động kinh không kèm theo rối loạn ngôn ngữ… Trong trạng thái đó, người bệnh có thể có hành động tấn công nguy hiểm hoàn toàn vô cớ, thậm chí giết người hàng loạt. Say rượu bệnh lý khác với say rượu thông thường, thường không có rối loạn vận động và ngôn ngữ, phối hợp động tác vẫn còn; kéo dài không quá một vài giờ và kết thúc đột ngột bằng một giấc ngủ, người bệnh khi đã tỉnh dậy hoàn toàn không nhớ những gì đã xảy ra hoặc nhớ hết sức vụn vặt. Ở người đã có hành động nguy hiểm, việc xác định say rượu bệnh lý là cơ sở để coi họ là mất năng lực trách nhiệm hình sự[4].

Như vậy, đối với người say rượu bệnh lý thì thuộc những trường hợp “bệnh khác” theo quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự, làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình[5]. Còn đối với tình trạng say mà không phải do lỗi của mình gây ra (bị ép buộc, bị lừa dối) nếu đến mức không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình thì một số tài liệu cho rằng, trường hợp này được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự[6].

Thứ hai, người phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia còn bị coi là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự hơn so với người bình thường trong một số tội phạm đó là: Điểm b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự (Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ); điểm b khoản 2 Điều 267 Bộ luật Hình sự (Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt); điểm b khoản 2 Điều 272 Bộ luật Hình sự (Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt). Đây là một số công việc có tính chất đặc biệt, cấm người thực hiện công việc đó sử dụng rượu, bia.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự, trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong tình trạng sử dụng rượu, bia được quy định ở hai khía cạnh, đó là không loại trừ trách nhiệm hình sự nếu việc sử dụng rượu, bia dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi và việc sử dụng rượu, bia trong một số trường hợp (Điều 260, Điều 267 và Điều 272) là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

3. Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thực tế không thể phủ nhận trách nhiệm hình sự của người phạm tội mà khi thực hiện hành vi phạm tội, họ bị mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển của mình do sử dụng rượu, bia. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hình sự hiện hành về vấn đề này vẫn còn những bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung.

Thứ nhất, pháp luật hình sự Việt Nam cần nhìn nhận sự ảnh hưởng của tình trạng sử dụng rượu, bia khi thực hiện hành vi phạm tội ở một phạm vi rộng hơn, bởi sự ảnh hưởng của tình trạng này ở người phạm tội trong mỗi trường hợp là khác nhau. Có thể lý giải rõ hơn từ yếu tố lỗi, rõ ràng, một người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý và vô ý thì sự tác động của yếu tố sử dụng rượu, bia là khác nhau. Ví dụ: A có ý định giết B nhưng A chưa dám thực hiện vì còn lo sợ. A quyết định uống rượu cho say để lấy tinh thần đi giết B. Dưới tác dụng của rượu, A sẽ tự tin hơn với ý định đã có từ trước, sự quyết tâm cũng được nâng cao hơn. Trên thực tế, có rất nhiều vụ án xảy ra trong tình trạng say rượu, bia dẫn đến hậu quả khôn lường như các vụ thảm án chết nhiều người, giết người thân khi có mâu thuẫn với nhau trong thời gian dài…

Như vậy, với những trường hợp người phạm tội rõ ràng đã có ý định phạm tội từ trước mà sử dụng rượu, bia trong khi thực hiện hành vi phạm tội thì nên tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thực tế, pháp luật một số nước cũng ghi nhận việc tăng nặng trách nhiệm hình sự trong trường hợp này như: Điều 18 (Phạm tội hình sự khi say rượu) của Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Albania năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ghi nhận: “Khi say rượu được gây ra với ý định phạm tội, tình tiết này sẽ được xem xét để tăng nặng bản án”; khoản 14 Điều 63 (Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm và hình phạt) của Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa Armenia cũng ghi nhận “phạm tội dưới ảnh hưởng của rượu, ma tuý hoặc các chất say khác” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị nên ghi nhận việc “phạm tội dưới ảnh hưởng của rượu, bia đối với những người có ý định phạm tội” là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.

Thứ hai, sự ảnh hưởng của rượu, bia đối với người uống trong một số trường hợp ngẫu nhiên, hoàn toàn không có ý định phạm tội từ trước hoặc trong trường hợp người phạm tội bị lừa dối, ép buộc thì hành vi phạm tội nên được lý giải theo hướng biện minh cho hành vi phạm tội. Tức là, nếu như người phạm tội không dùng rượu, bia trong hoàn cảnh đó thì họ không thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và nên được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Như vậy, đối với người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý mà chứng minh được nguyên nhân phạm tội xuất phát từ sự hạn chế khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi do tác dụng của rượu, bia thì nên được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với trường hợp này, nên được hướng dẫn thuộc tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm l khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” hoặc xem xét quy định thành một tình tiết giảm nhẹ riêng.

Thứ ba, theo khoản 7 Điều 10 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019, các địa điểm công cộng là nơi không được uống rượu, bia nhằm giảm bớt tác hại của rượu, bia. Hành vi gây rối trật tự công cộng trong tình trạng có sử dụng rượu, bia làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và có nguy cơ tăng mức độ nguy hiểm của hành vi hơn trường hợp bình thường do rượu, bia ảnh hưởng đến khả năng kiềm chế hành vi của người phạm tội. Vì vậy, theo tác giả, ngoài các tội phạm quy định tại Điều 260, Điều 267 và Điều 270 về người phạm tội có sử dụng rượu, bia là tình tiết định khung tăng nặng vì liên quan đến tính chất công việc có khả năng gây nguy hiểm cho nhiều người, nên bổ sung tình tiết người phạm tội trong tình trạng sử dụng rượu, bia vào khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự nhằm tăng mức hình phạt, bảo đảm hiệu quả răn đe người thực hiện hành vi phạm tội này.

Huỳnh Thị Lệ Kha
Khoa Luật, Đại học Thủ Dầu Một



[1]. Bộ Y tế, Báo cáo đánh giá tác động của chính sách trong Dự án Luật Phòng chống tác hại của rượu, bia, Hà Nội, tháng 11/2016.

[2]. Bia rượu, dưới góc nhìn về an ninh trật tự, http://congan.travinh.gov.vn/ch26/306-Bia-ruou-duoi-goc-nhin-ve-an-ninh-trat-tu.html, truy cập ngày 22/12/2021.

[3]. Điều 8 Bộ luật Hình sự quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý…”.

[4]. Tâm thần học, Nxb. “MIR” - Matcova và Nxb. Y học Hà Nội, 1980.

[5]. Đinh Văn Quế, Say rượu bệnh lý có thoát tội?, https://plo.vn/plo/say-ruou-benh-ly-co-thoat-toi-19748.html.

[6]. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam - Phần chung (Tái bản lần thứ nhất có sửa đổi, bổ sung), Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, năm 2019, tr. 145.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm