Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật lao động về thời giờ làm thêm - Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị

- Số giờ làm thêm: Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Lao động năm 2012, làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường được quy định trong pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo nội quy lao động.

1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thời giờ làm thêm
- Số giờ làm thêm: Theo quy định tại Điều 106 Bộ luật Lao động năm 2012, làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường được quy định trong pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo nội quy lao động. Số giờ làm thêm của người lao động (NLĐ) được đảm bảo không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 30 giờ trong 01 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm. Một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 01 năm (đó là các trường hợp: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, chế biến nông, lâm, thủy sản; sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; các trường hợp khác phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải thông báo bằng văn bản cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tại địa phương nơi sử dụng người lao động làm thêm giờ.

Thực tế, so với các quốc gia trong khu vực, thì số giờ làm thêm tối đa của NLĐ Việt Nam hiện ở mức thấp (giờ làm thêm tối đa ở Indonesia là 56 giờ/tháng, Singapore là 72 giờ/tháng, Malaysia là 104 giờ/tháng, Thái Lan là 36 giờ/tuần). Tuy nhiên, việc so sánh này phải gắn với quy định thời giờ làm việc ở Việt Nam (tối đa 48 giờ/tuần). Theo tính toán của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nếu cộng thêm với thời giờ làm thêm (là 400 giờ/năm), thì tổng quỹ thời gian làm việc trung bình của NLĐ Việt Nam có thể lên đến 2.720 giờ/năm. Trong khi đó, ở Hàn Quốc quy định số giờ làm thêm là 624 giờ/năm, còn tại Trung Quốc là 432 giờ/năm. Tuy nhiên, cộng cả giờ làm chính thức và giờ làm thêm tối đa theo quy định thì quỹ thời gian làm việc của NLĐ ở các nước này đều thấp hơn tại Việt Nam[1]. Như vậy, có thể nói thực chất quỹ thời gian làm việc của NLĐ Việt Nam đang ở mức cao.

- Quyền lợi của người lao động khi làm thêm giờ: Theo khảo sát của ILO, năm 2012, trong 162 nước có 18 nước không quy định mức lương thời giờ làm thêm; trong số 144 nước quy định về mức lương làm thêm giờ trong ngày, có 24 nước quy định số giờ làm thêm ít nhất tăng thêm 20% lương làm việc trong ngày; 41 nước quy định mức lương thời gian làm thêm ít nhất tăng thêm từ 25 - 40% so với thời gian trong ngày; 71 nước quy định mức lương thời gian làm thêm trong ngày ít nhất tăng thêm 50% thời gian ngày; 08 nước quy định mức lương tăng thêm thời gian làm thêm bằng từ 75 - 100% so với thời gian làm việc bình thường trong ngày (bao gồm Tunisia, Bangladesh, Romania, Bolivia, El Salvado, Mexico, Nicargua, Uruguay)[2]. Việt Nam nằm trong nhóm 71 nước có quy định thời gian làm thêm giờ mức lương trả cao hơn ít nhất 50%.

- Theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động năm 2012, mức tiền lương làm thêm giờ phụ thuộc vào thời điểm NLĐ được huy động làm thêm. Cụ thể:

+ NLĐ hưởng lương theo thời gian được trả lương làm thêm giờ khi làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường do NSDLĐ quy định (Điều 104 Bộ luật Lao động năm 2012). Tiền lương làm thêm được được tính bằng tiền lương thực trả của ngày làm việc bình thường nhân mức ít nhất 150%, 200% hoặc 300% nhân với số giờ làm thêm.

+ Đối với NLĐ hưởng lương theo sản phẩm, được trả lương làm thêm giờ khi NLĐ và NSDLĐ thỏa thuận làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường để làm thêm số lượng, khối lượng sản phẩm, công việc ngoài số lượng, khối lượng sản phẩm, công việc theo định mức lao động đã thỏa thuận.

Theo đó, tiền lương làm thêm giờ được tính bằng đơn giá tiền lương sản phẩm của ngày làm việc bình thường nhân mức ít nhất 150%, 200% hoặc 300% nhân với số sản phẩm làm thêm.

- Tiền lương làm thêm giờ vào ban đêm được tính như sau:

+ Tiền lương làm thêm giờ vào ban đêm = (Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường x Mức ít nhất 150% hoặc 200% hoặc 300%) + (Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường x Mức ít nhất 30%) + (20% x Tiền lương giờ vào ban ngày của ngày làm việc bình thường hoặc của ngày nghỉ hằng tuần hoặc của ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương x Số giờ làm thêm vào ban đêm).

+ Đối với người lao động hưởng lương theo sản phẩm, tiền lương làm thêm giờ vào ban đêm được tính như sau:

Tiền lương làm thêm giờ vào ban đêm = (Đơn giá tiền lương sản phẩm của ngày làm việc bình thường x Mức ít nhất 150% hoặc 200% hoặc 300%) + (Đơn giá tiền lương sản phẩm của ngày làm việc bình thường x Mức ít nhất 30%) + (20% x Đơn giá tiền lương sản phẩm vào ban ngày của ngày làm việc bình thường hoặc của ngày nghỉ hằng tuần hoặc của ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương x Số sản phẩm làm thêm vào ban đêm).

- Làm thêm giờ trong những trường hợp đặc biệt: Theo Điều 106 Bộ luật Lao động năm 2012, khi huy động làm thêm giờ, NSDLĐ phải thỏa thuận với NLĐ. Nếu NLĐ đồng ý, NSDLĐ mới được phép huy động NLĐ làm thêm giờ. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của NLĐ, thể hiện sự tôn trọng ý chí của NLĐ và sự nỗ lực của pháp luật trong việc cân bằng vị thế của NLĐ và NSDLĐ. Mặt khác, quy định này cũng hạn chế tình trạng lao động cưỡng bức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, NSDLĐ được thực hiện quyền đơn phương huy động người lao động làm thêm giờ bất cứ ngày nào mà NLĐ không được quyền từ chối, đó là các trường hợp quy định tại Điều 107.

2. Một số kiến nghị

2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về thời giờ làm thêm trên cơ sở tương thích với các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và pháp luật các quốc gia khác trong khu vực

Thứ nhất, quy định thời giờ làm thêm giới hạn theo ngày, tháng, năm nhưng có sự linh hoạt. Cụ thể: (i) Giữ nguyên mức giới hạn về số giờ làm thêm theo năm. Tính cả thời gian làm việc chính thức và thời gian làm thêm giờ của NLĐ như hiện nay thì Việt Nam có số giờ làm việc vào diện cao nhất trên thế giới; bên cạnh đó, muốn tăng số giờ làm thêm lên thì một phương án được đề ra là số giờ làm việc tiêu chuẩn hiện nay (08 giờ/ngày) phải giảm xuống, tuy nhiên, phương án này trong thực tế là thiếu khả thi hơn so với việc giữ nguyên số giờ làm thêm ở mức thấp như hiện nay. (ii) Quy định giới hạn làm thêm giờ không quá 30 giờ/tháng, trong một số trường hợp nhằm phù hợp với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có thể vượt quá 30 giờ nhưng tổng số thời gian làm thêm giờ trong 01 năm của NLĐ không được vượt quá 200 giờ và 300 giờ trong một số trường hợp Chính phủ quy định. Không thể bỏ quy định giới hạn số giờ làm thêm theo tháng, vì khi không có quy định này sẽ dẫn đến trường hợp NSDLĐ huy động NLĐ làm thêm liên tục trong nhiều ngày liền cho đến khi chạm mức trần giới hạn số giờ làm thêm theo năm, ảnh hưởng nghiêm trong đến sức khỏe của NLĐ. Tuy nhiên, cũng không thể cứng nhắc số giờ làm thêm không quá 30 giờ/tháng vì trên thực tiễn, quy định như vậy không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay. Cũng cần phải quy định cụ thể những trường hợp được tăng số giờ làm thêm của NLĐ vượt ngưỡng 30 giờ/tháng để tránh việc NSDLĐ lợi dụng lý do này huy động NLĐ làm thêm giờ. (iii) Quy định số giờ làm thêm xác định theo ngày, ấn định bảo đảm số giờ làm thêm của NLĐ không quá 02 giờ/ngày. Đây là phương án nhóm tác giả nhận được sự tán thành đông đảo nhất từ phía NLĐ khi tiến hành khảo sát. Bởi lẽ, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, thì thời giờ làm thêm của NLĐ không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày. Như vậy, tối đa NLĐ có thể phải làm việc liên tục 12 giờ/ngày cộng với trường hợp NLĐ được huy động làm thêm giờ nhiều ngày liên tục thì khả năng suy giảm sức khỏe, nguy cơ mắc bệnh nghề nghiệp, xảy ra tai nạn lao động là rất cao. Thêm vào đó, xét về cơ sở sinh học, khoảng thời gian tối đa 02 giờ làm thêm trong một ngày, cộng với số giờ làm việc bình thường là 08 giờ phù hợp với thời gian hoạt động hiệu quả của cơ thể, đảm bảo an toàn về sức khỏe cho NLĐ, đảm bảo thời gian phục hồi và tái tạo sức lao động của NLĐ.

Thứ hai, bổ sung các quy định nhằm hạn chế tác động bất lợi của làm thêm giờ. Cụ thể: (i) Bổ sung thời gian nghỉ giữa giờ trong thời gian làm thêm (phải là thời gian nghỉ ngơi bắt buộc, không cho làm việc để tính là giờ làm thêm), thời gian nghỉ giữa 02 ca làm việc liền kề, sau một số ngày làm thêm liên tục; quy định giới hạn số ngày trong tuần, số tháng trong năm được làm thêm liên tục; (ii) Chỉ cho phép một số ngành nghề đặc thù, do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong một giai đoạn nhất định mới cho làm thêm quá 300 giờ như: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày; chế biến nông, lâm, thủy sản; sản xuất...; (iii) Bổ sung, sửa đổi quy định nhằm tăng cường chia sẻ lợi ích kinh tế, trách nhiệm xã hội như: Tăng cường khám sức khỏe tại nơi làm việc, tăng lương tương ứng theo số giờ làm thêm tích kũy trong năm; ưu tiên NSDLĐ thực hiện tốt điều kiện phúc lợi xã hội (nơi nghỉ ngơi, giải trí, nhà trẻ, trường học…), sử dụng lao động nữ sau độ tuổi 35...; (iv) Pháp luật lao động hiện nay chỉ hạn chế NSDLĐ thỏa thuận làm thêm giờ, nhưng không hạn chế NLĐ ký nhiều hợp đồng lao động với nhiều NSDLĐ (tức là làm thêm giờ không hạn chế với NLĐ làm việc cho nhiều người). Vì vậy, nếu cho rằng hạn chế làm thêm là để bảo vệ sức khỏe NLĐ thì cũng phải hạn chế cả việc NLĐ ký nhiều hợp đồng nếu đã làm đủ 08 giờ/ngày; (v) Cần thiết bổ sung quy định thời hạn báo trước ít nhất 12 giờ khi huy động người lao động làm thêm giờ (trừ trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, sự cố) để người lao động chủ động bố trí thời gian cho công việc gia đình cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho NSDLĐ trong hoạt động báo trước; (vi) Để hạn chế tình trạng làm thêm giờ tràn lan và tạo điều kiện cho những người chưa có việc làm kiếm được việc làm, Nhà nước cần có một số quy định cấm doanh nghiệp áp dụng việc làm thêm trong một số trường hợp đặc biệt (ví dụ như trong trường hợp tình trạng thất nghiệp gia tăng) và yêu cầu tăng cường tuyển dụng nhằm tạo điều kiện kiếm việc làm cho những người đang thất nghiệp.

2.2. Nâng cao hiệu quả thực thi quy định của pháp luật về làm thêm giờ

Để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về làm thêm giờ, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thời giờ thêm thông qua các kênh thông tin đại chúng, các hoạt động phổ biến pháp luật tới người lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật lao động, giúp người lao động biết và có thể đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Đồng thời, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể liên quan, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về lao động và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật về thời giờ làm việc nói chung và quy định của pháp luật về làm thêm giờ nói riêng.

Tăng cường hiệu quả giám sát, bảo vệ quyền lợi người lao động, xử lý các hành vi vi phạm như: Quy định phương thức thỏa thuận, tham khảo ý kiến của công đoàn cơ sở, đăng ký hoặc khai báo với cơ quan quản lý nhà nước về lao động... Tổ chức đại diện của NLĐ, nhất là tổ chức đại diện của NLĐ ở cơ sở phải thực sự quyết liệt trong việc đấu tranh bảo vệ NLĐ trong trường hợp NSDLĐ vi phạm quy định về thời giờ làm thêm, xâm phạm tới quyền lợi của NLĐ. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi nói chung và thời giờ làm thêm nói riêng.

Hoàng Minh Anh

Bùi Đan Linh

Sinh viên Khóa 41, Đại học Luật Hà Nội



[1]. Bùi Đức Nhưỡng, “Một số giải pháp hoàn thiện quy định về làm thêm giờ và thời giờ nghỉ ngơi trong ngày làm việc”, Trang thông tin Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện khoa học An toàn và Vệ sinh lao động, Tạp chí An toàn vệ sinh lao động số 04/2018, đăng tải ngày 22/5/2018, tham khảo: http://vnniosh.vn/Details/id/7881/Mot-so-giai-phap-hoan-thien-quy-dinh-ve-lam-them-gio-va-thoi-gio-nghi-ngoi-trong-ngay-lam-viec.

[2]. Working Conditions Law Report 2012 - A global review.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: