Chủ nhật 14/12/2025 04:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật về điều kiện kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Kinh doanh bất động sản là lĩnh vực rất được các chủ đầu tư nước ngoài quan tâm, bởi đây là ngành, nghề có thể mang lại lợi nhuận lớn và với sự tham gia của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần vào sự phát triển chung của thị trường bất động sản Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định pháp luật hiện hành phạm vi kinh doanh bất động sản của chủ thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có phần hạn chế hơn các nhà đầu tư trong nước. Thông qua bài viết, tác giả đã phân tích một cách tổng quan pháp luật về các điều kiện để doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được kinh doanh bất động sản tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.


1. Tổng quan pháp luật về điều kiện kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

1.1. Phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Phạm vi kinh doanh bất động sản được quy định trong Luật Đất đai và Luật Kinh doanh bất động sản. So với Luật Đất đai năm 2003, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 thì Luật Đất đai năm 2013, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đã mở rộng và nới nỏng hơn phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, cụ thể:

Thứ nhất, về phạm vi tiếp cận đất đai từ phía Nhà nước

Luật Đất đai năm 2013 đã mở rộng quyền tiếp cận quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi kinh doanh bất động sản tại Việt Nam. Theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất giống như nhà đầu tư trong nước để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán, kết hợp bán và cho thuê (khoản 3 Điều 55 Luật Đất đai năm 2013); được Nhà nước cho thuê đất trả tiền 01 lần cho cả thời gian thuê hoặc thuê đất trả tiền hàng năm (khoản 1 Điều 56 Luật Đất đai năm 2013). Quy định này được cụ thể hóa nguyên tắc bình đẳng được quy định tại Điều 51 Hiến pháp năm 2013 và đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi đầu tư, kinh doanh trên thị trường bất động sản Việt Nam.

Tuy nhiên, theo quy định từ Điều 174 đến Điều 178 Luật Đất đai năm 2013 về tổ chức trong nước và từ Điều 183 đến Điều 187 Luật Đất đai năm 2013 về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, quyền của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với tổ chức trong nước đối với giao dịch quyền sử dụng đất vừa có sự phức tạp và vừa có sự hạn chế hơn tùy thuộc vào nguồn gốc sử dụng đất. Theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền giao dịch quyền sử dụng đất giống như tổ chức trong nước, nếu: (i) Doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam mà bên Việt Nam chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối và doanh nghiệp này sử dụng đất giao có thu tiền sử dụng đất hoặc đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê; (ii) Doanh nghiệp liên doanh giữa tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài với tổ chức kinh tế mà tổ chức kinh tế góp vốn bằng quyền sử dụng đất, hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài; (iii) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà trả tiền thuê đất, thuê lại đất một lần cho cả thời gian thuê. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, giao đất có thu tiền sử dụng đất thì các quyền giao dịch quyền sử dụng đất hạn chế hơn tổ chức trong nước, cụ thể là không được thực hiện tặng cho quyền sử dụng đất.

Thứ hai, về phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện các hoạt động sau: (i) Thuê nhà, công trình xây dựng để cho thuê lại; (ii) Đầu tư xây dựng nhà ở trên đất được Nhà nước cho thuê để cho thuê; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng không phải là nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua; (iii) Nhận chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản của chủ đầu tư để xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua; (iv) Đầu tư xây dựng nhà ở trên đất được Nhà nước giao để bán, cho thuê, cho thuê mua; (v) Đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng đối với đất thuê trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế để kinh doanh theo đúng mục đích sử dụng đất.

Tuy nhiên, xuất phát từ chế độ sở hữu toàn dân về đất đai cũng như gắn liền với các yếu tố về chủ quyền của đất nước nên Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 cũng giới hạn phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cụ thể: Không được mua nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua; đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với đất được Nhà nước giao; chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền theo quy định của pháp luật về đất đai; đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng kỹ thuật đó; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với đất được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua đối với đất nhận chuyển nhượng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật để chuyển nhượng, cho thuê đất đã có hạ tầng kỹ thuật đó.

Như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ người sử dụng đất và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có cơ hội duy nhất tiếp cận đất đai từ phía Nhà nước. Điều này phần nào đã hạn chế quyền chuyển quyền sử dụng đất trong thị trường thứ cấp, chưa thể hiện sự bình đẳng thực sự giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bất động sản.

1.2. Điều kiện kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bên cạnh các điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của chủ thể kinh doanh theo quy định của pháp luật dân sự, theo quy định tại Điều 10 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, được sửa đổi, bổ sung tại Điều 75 Luật Đầu tư năm 2020, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh bất động sản phải đáp ứng các điều kiện như sau:

Một là, phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã (sau đây gọi chung là doanh nghiệp), trừ trường hợp tổ chức, hộ gia đình, cá nhân bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ, không thường xuyên. Như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh bất động sản được thành lập theo pháp luật Việt Nam và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có ngành, nghề kinh doanh bất động sản với mô hình doanh nghiệp hoặc hợp tác xã. Đặc biệt, kể từ ngày 01/01/2021, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh bất động sản tại Việt Nam không cần đáp ứng điều kiện “có vốn pháp định không được thấp hơn 20 tỷ đồng” như quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.

Năng lực của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi đầu tư kinh doanh bất động sản ở Việt Nam sẽ được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật Đất đai năm 2013, theo đó, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư phải có các điều kiện: Có năng lực tài chính để bảo đảm việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư; ký quỹ theo quy định của pháp luật về đầu tư; không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp đang sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư khác. Như vậy, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có năng lực tài chính, phải chứng minh được khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định dự án đầu tư kinh doanh bất động sản.

Hai là, tổ chức chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê mua bất động sản quy mô nhỏ không thường xuyên thì không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật. Với quy định trên có thể hiểu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh bất động sản có quy mô nhỏ không thường xuyên thì không cần phải tiến hành đăng ký ngành, nghề kinh doanh bất động sản trong hoạt động kinh doanh của mình.

1.3. Điều kiện kinh doanh dịch vụ bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản, dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải tuân thủ về chứng chỉ nghề nghiệp trong hoạt động của mình. Các chứng chỉ đó chứng minh tư cách pháp lý của chủ thể kinh doanh và khả năng cung cấp các nghiệp vụ kinh doanh phục vụ khách hàng, cụ thể:

- Trong kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản: Môi giới bất động sản là hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản của các tổ chức, cá nhân theo quy định pháp luật. Theo đó, bên môi giới làm trung gian cho các bên trong việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản và được hưởng tiền thù lao, hoa hồng theo hợp đồng môi giới. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải đáp ứng điều kiện theo quy định tại Điều 62 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, phải thành lập doanh nghiệp và có ít nhất hai người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản. Nếu thiếu điều kiện trên, doanh nghiệp sẽ không được hoạt động kinh doanh môi giới bất động sản.

- Trong kinh doanh sàn giao dịch bất động sản: Sàn giao dịch bất động sản là “chợ” chuyên biệt, nơi trung gian thực hiện việc đưa hàng hóa bất động sản giao lưu trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, để bảo đảm thực hiện tốt các vai trò của sàn giao dịch bất động sản thì pháp luật kinh doanh bất động sản đặt ra các điều kiện cụ thể đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó, góp phần xây dựng “chợ” minh bạch về thông tin, chuyên nghiệp về cách thức tổ chức và thực hiện các giao dịch bất động sản. Theo quy định tại Điều 69 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ bất động sản cần đáp ứng các điều kiện sau: (i) Phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp và không buộc phải có mức vốn pháp định tối thiểu 20 tỷ đồng khi thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản1. (ii) Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản; người quản lý, điều hành sàn giao dịch bất động sản phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản. Pháp luật kinh doanh bất động sản đặt ra điều kiện người quản lý điều hành trong doanh nghiệp phải có người chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản nhằm bảo đảm hoạt động của sàn giao dịch bất động sản vững về chuyên môn, chắc về tính pháp lý và chuyên nghiệp trong kinh doanh dịch vụ bất động sản. (iii) Sàn giao dịch bất động sản phải có quy chế hoạt động, tên, địa chỉ, cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động.

Ngoài ra, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 cũng quy định về việc cần phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu hoạt động của sàn giao dịch bất động sản, tuy nhiên, đến nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về điều kiện cứng đối với cơ sở vật chất, kỹ thuật của sàn giao dịch bất động sản.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung về phạm vi kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở rộng phạm vi kinh doanh bất động sản, được đầu tư xây dựng nhà, công trình xây dựng để kinh doanh theo đúng mục đích sử dụng đất không chỉ đối với đất thuê trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể kinh doanh bất động sản dưới hình thức nhận chuyển nhượng từ tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân trong phạm vi dự án đầu tư đã được chấp thuận của Nhà nước. Điều này, cũng giúp cho Nhà nước kiểm soát các giao dịch “núp bóng” của nhà đầu tư nước ngoài có nguy cơ xâm phạm đến an ninh, chính trị, chủ quyền đất nước.

Thứ hai, cần có quy định đánh giá chính xác tiềm lực tài chính của những dự án đầu tư, để hạn chế tối đa những nhà đầu tư không có đủ năng lực đầu tư vào dự án kinh doanh bất động sản, bảo đảm đất đai không bị lãng phí, kém hiệu quả do tồn tại “dự án treo”, “dự án ma”.

Thứ ba, để bảo đảm cho sàn giao dịch bất động sản hoạt động có hiệu quả, đặc biệt sàn giao dịch bất động sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì phải có quy định cụ thể về điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật phải đáp ứng, cần coi đó là điều kiện tiên quyết để đưa sàn vào hoạt động trên thị trường bất động sản.

ThS. Phùng Thị Phương Thảo & ThS. Nguyễn Thị Huyền Trang
Học viện Phụ nữ Việt Nam

[1]. Điểm b khoản 1 Điều 3 Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: