Thứ tư 19/11/2025 09:09
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật Việt Nam về ưu đãi thuế khi sử dụng người lao động khuyết tật

Bình đẳng trong cơ hội việc làm cho người khuyết tật là một trong những vấn đề quan trọng để thực thi quyền con người. Bên cạnh việc hỗ trợ người khuyết tật tự khởi nghiệp thì việc thúc đẩy người sử dụng lao động tuyển dụng người khuyết tật cần có những chính sách ưu đãi đặc biệt. Trong bài viết, tác giả làm rõ chính sách ưu đãi thuế cho người sử dụng lao động khi sử dụng người khuyết tật về chủ thể, điều kiện, mức hưởng ưu đãi dành cho người sử dụng lao động, trên cơ sở phân tích các quy định pháp luật và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật, thông qua đó để nhận ra những điểm bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo và đưa ra hướng khắc phục.

1. Đặt vấn đề

Trong tiến trình hướng đến sự phát triển bền vững của loài người, thực thi nhân quyền thì một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết mà Nhà nước phải hướng đến. Đặc biệt là nhìn nhận và bảo vệ quyền của nhóm yếu thế nhất trong xã hội là người khuyết tật cần phải được đề cao, vấn đề này cũng là một trong những tiêu chí cốt lõi để đánh giá sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Theo Tổ chức Y tế thế giới, “năm 2021, ước tính có khoảng 1,3 tỷ người, chiếm 16% dân số thế giới bị khuyết tật nghiêm trọng. Dự báo con số này sẽ tăng lên do sự gia tăng những căn bệnh không lây nhiễm và sự già hóa dân số”[1]. Riêng tại Việt Nam, theo kết quả điều tra quy mô lớn đầu tiên tại Việt Nam năm 2016 thì “kết quả điều tra hộ gia đình cho thấy 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên là người khuyết tật”[2]. Từ đó ta thấy, người khuyết tật chiếm tỷ lệ rất lớn trong xã hội, họ là nhóm yếu thế rất dễ bị tổn thương nên cần được quan tâm, hỗ trợ từ mọi nguồn lực để xóa bỏ sự mặc cảm, kỳ thị.

Xét từ góc độ quyền con người thì giống như tất cả mọi người, người khuyết tật cần phải được bảo đảm tự do, bình đẳng, được tôn trọng phẩm giá và được cống hiến, được khẳng định giá trị cá nhân. Tuy nhiên, do sự hạn chế trong các hoạt động nên việc tiếp cận việc làm của người khuyết tật đang gặp rất nhiều khó khăn do nhà tuyển dụng “e ngại” tuyển dụng người khuyết tật và năng suất lao động thấp, thêm vào đó phải tốn thêm chi phí để xây dụng môi trường làm việc phù hợp với họ theo quy định của pháp luật.

Chúng ta phải thừa nhận rằng, việc sử dụng người lao động khuyết tật cũng gây rất nhiều khó khăn cho phía người sử dụng lao động. Bên cạnh khó khăn trong việc quản lý - điều hành người lao động khuyết tật, đầu tư nhiều chi phí để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho người khuyết tật theo quy định của pháp luật nhưng có thể năng suất lao động thấp. Đa số trường hợp sử dụng lao động khuyết tật thông thường mang tính chất nhân đạo nhiều hơn dựa trên nhu cầu lao động của người sử dụng lao động. Vì vậy, việc Nhà nước có biện pháp hỗ trợ phù hợp để kích thích, tạo động lực cho người sử dụng lao động thuê, mướn người lao động khuyết tật tham gia lao động là rất cấp thiết, giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người sử dụng lao động, tạo điều kiện cho người lao động khuyết tật tìm kiếm việc làm, tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình, góp phần giảm thiểu sự mặc cảm, áp lực tâm lý của người lao động khuyết tật, cao hơn nữa là góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam bền vững.

Tuy nhiên, những ưu đãi của Nhà nước đối với người sử dụng lao động khuyết tật hiện nay có những vấn đề chưa phù hợp, đặc biệt là chính sách ưu đãi thuế còn có sự chưa đồng bộ, chồng chéo, thiếu sót nên việc triển khai trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Trong bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về ưu đãi thuế và khó khăn trong việc triển khai các quy định này trong thực tiễn, đồng thời đưa ra giải pháp hoàn thiện.

2. Quy định pháp luật, bất cập và hướng hoàn thiện về ưu đãi thuế khi sử dụng người lao động khuyết tật

2.1. Điều kiện về số lượng và tỷ lệ sử dụng người khuyết tật để được hưởng ưu đãi thuế

Để được miễn thuế thì chủ thể sử dụng lao động phải thỏa mãn hai điều kiện sau:

Thứ nhất, về tỷ lệ sử dụng người lao động khuyết tật.

Theo điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật (Nghị định số 28/2012/NĐ-CP) thì cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Ở đây, quy định thuần túy là tỷ lệ lao động người khuyết tật phải đạt từ 30% mới được miễn thuế. Tuy nhiên, theo tinh thần của khoản 4 Điều 8 Thông tư số 78/2014/TT-BTC ngày 18/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (Thông tư số 78/2014/TT-BTC) thì mức 30% để miễn thuế tính cộng dồn bao gồm tất cả các nhóm đối tượng “người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm HIV bình quân trong năm chiếm từ 30% trở lên trong tổng số lao động bình quân trong năm của doanh nghiệp”. Cách tính thuế của Thông tư số 78/2014/TT-BTC sẽ có lợi và phù hợp hơn cho người sử dụng lao động, thúc đẩy người sử dụng lao động sử dụng đa dạng nhóm lao động được khuyến khích sử dụng mà vẫn được cộng dồn lại để tính ưu đãi thuế. Vì vậy, quy định hai văn bản chưa đồng nhất nhau nhưng theo hiệu lực văn bản thì Nghị định số 28/2012/NĐ-CP có giá trị pháp lý cao hơn Thông tư số 78/2014/TT-BTC, nhưng Thông tư số 78/2014/TT-BTC lại ra đời sau, là văn bản chuyên ngành và hợp lý hơn. Vì vậy, nên chăng Nghị định số 28/2012/NĐ-CP chỉ cần ghi nhận về việc miễn thuế, còn tỷ lệ nào để được miễn nên áp dụng những quy định pháp luật chuyên ngành về thuế.

Thứ hai, về quy định tại đoạn 3 khoản 4 Điều 8 Thông tư số 78/2014/TT-BTC “doanh nghiệp thuộc diện được miễn thuế quy định tại khoản này là doanh nghiệp có số lao động bình quân trong năm ít nhất từ 20 người trở lên và không bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản.

Theo đó, điều kiện để doanh nghiệp được hưởng chính sách này phải có quy mô lao động từ 20 người trở lên là chưa phù hợp đối với tình hình kinh tế Việt Nam khi đa số các doanh nghiệp nhỏ hoặc siêu nhỏ sẽ không thể được hưởng chính sách ưu đãi này, trên thực tế, “các doanh nghiệp loại này chiếm đến 98% tỷ lệ doanh nghiệp ở cả ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ tại Việt Nam hiện nay”[3]. Vậy, nếu những doanh nghiệp sử dụng 100% lao động là người khuyết tật làm việc nhưng quy mô dưới 20 người sẽ không được hưởng ưu đãi thuế này là điều bất hợp lý.

Vì vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại đoạn 3 khoản 4 Điều 8 Thông tư số 78/2014/TT-BTC như sau: “Doanh nghiệp thuộc diện được miễn thuế quy định tại khoản này là doanh nghiệp có số lao động bình quân trong năm ít nhất từ 20 người trở lên, nếu số lao động dưới 20 người thì phải có ít nhất 06 người lao động là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm HIV và không bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh bất động sản”. Theo tác giả, việc sửa đổi, bổ sung này phù hợp vì tính theo tỷ lệ vẫn bảo đảm được tỷ lệ thấp nhất của quy định cũ (30% của doanh nghiệp từ 20 người trở lên) và vẫn bảo đảm được những doanh nghiệp nhỏ có quy mô dưới 20 người vẫn có thể được hưởng chính sách miễn thuế.

2.2. Chủ thể được hưởng ưu đãi thuế

Theo điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP thì cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định “cơ sở sản xuất, kinh doanh là doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình và các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh”.

Theo Điều 2 Thông tư số 78/2014/TT-BTC quy định về người nộp thuế thì hộ gia đình không thuộc diện nộp loại thuế này. Căn cứ khoản 1 Điều 1 Thông tư số 92/2015/TT-BTC[4], hộ gia đình thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân nếu có mức thu nhập từ 100 triệu đồng trở lên. Từ đó suy ra hộ gia đình sẽ không được hưởng chính sách ưu đãi thuế khi sử dụng thuê, mướn người khuyết tật.

Để làm sáng tỏ hơn điều này thì căn cứ Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và văn bản hướng dẫn thi hành không quy định hộ gia đình được miễn thuế nếu thuộc trường hợp “sử dụng 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật”. Như vậy, có thể kết luận rằng, đối với trường hợp hộ gia đình sử dụng “từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật” sẽ không được hưởng chính sách ưu đãi thuế. Đặt vào bối cảnh lịch sử khi quy định này ra đời để giải thích nguyên nhân, vì tại thời điểm này pháp luật quy định hộ gia đình không được sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên (Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp) cho nên nhà làm luật mặc định là hộ gia đình sẽ không thuộc diện miễn thuế vì sử dụng dưới 20 lao động. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật không còn hạn chế việc sử dụng lao động của hộ gia đình và trên thực tế, rất nhiều hộ gia đình sử dụng rất nhiều lao động và có nhiều hộ gia đình sử dụng 100% người lao động là người khuyết tật, do đó, quy định về đối tượng được miễn thuế này đã không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.

Từ phân tích trên cho thấy, quy định pháp luật còn chưa rõ ràng giữa các văn bản, nguyên nhân do sử dụng thuật ngữ pháp lý chưa thống nhất dẫn đến nhiều vấn đề còn thiếu sót. Theo tác giả, tinh thần của điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP là người làm luật mong muốn miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân cho tất cả “cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật”.

Vì vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật theo hướng:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP như sau: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân”.

Thứ hai, bổ sung Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định về thu nhập miễn thuế: “Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh của hộ gia đình sử dụng từ 20 lao động trở lên, trong đó có từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); nếu trường hợp hộ gia đình sử dụng dưới 20 lao động thì phải có ít nhất 06 người lao động trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)”. Việc bổ sung này là hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế Việt Nam, hộ kinh doanh là mô hình rất phổ biến và lâu đời “cả nước đã có khoảng hơn 5 triệu hộ kinh doanh”[5] phân bố ở tất cả các vùng, miền. Điều này tạo sự thống nhất, đồng bộ giữa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành, ghi nhận quyền lợi chính đáng của các chủ thể sản xuất, kinh doanh.

2.3. Về mức ưu đãi thuế

Pháp luật quy định về miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho chủ thể sử dụng người lao động là người khuyết tật làm việc đủ điều kiện luật định “từ 30% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật”, không có chính sách giảm thuế.

Xét từ góc độ thực tiễn, hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp sử dụng lao động với quy mô rất lớn đến vài trăm nghìn lao động, nên có thể sử dụng số lượng lớn người lao động là người khuyết tật làm việc nhưng không thể nào đạt được tỷ lệ 30% trên tổng số lao động. Vì vậy, cần có chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sử dụng số lượng lớn lao động là người khuyết tật nhưng chưa đạt mức 30% trên tổng số lao động để khuyến khích họ sử dụng người khuyết tật.

Trong pháp luật thuế, chủ thể sử dụng lao động thuộc nhóm lao động như lao động nữ, lao động là người khuyết tật, lao động là người dân tộc thiểu số, lao động bị nhiễm HIV sẽ được hưởng ưu đãi thuế (bao gồm miễn hay giảm thuế hay không tính thuế). Trong đó, chi phí hợp lý chi thêm cho nhóm lao động này sẽ được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, đối với khoản chi thêm người lao động là người dân tộc thiểu số sẽ “được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp tương ứng với số tiền thực chi thêm cho lao động là người dân tộc thiểu số theo hướng dẫn” theo Điều 21 Thông tư số 78/2014/TT-BTC, nhưng số tiền chi thêm cho lao động là người khuyết tật lại không được giảm thuế.

Tác giả kiến nghị bổ sung quy định pháp luật về giảm thuế cho đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân theo hai hướng:

Phương án thứ nhất có thể áp dụng tương tự quy định tại Điều 21 Thông tư số 78/2014/TT-BTC về giảm thuế khi sử dụng người lao động là người dân tộc thiểu số: “Cơ sở sản xuất, kinh doanh được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp mức giảm tương ứng với số tiền thực chi thêm cho lao động là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)”. Tiếp đó, hoàn thiện quy định giảm thuế thu nhập cá nhân tương tự đối với hộ gia đình. Số tiền thực chi này có thể bao gồm tiền khám sức khỏe, đào tạo nghề, học phí đi học (nếu có) cộng chênh lệch tiền lương ngạch bậc (bảo đảm 100% lương cho người đi học); tiền hỗ trợ về nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…

Phương án thứ hai, có thể xây dựng quy định theo hướng về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tương ứng với tỷ lệ sử dụng người khuyết tật trên tổng số lao động. Ví dụ như giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế thu nhập cá nhân khi sử dụng “từ 20% tổng số lao động trở lên là người khuyết tật, người sau cai nghiện ma túy, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)”. Tuy nhiên, mức tỷ lệ giảm thuế cần được nghiên cứu sâu hơn và cần cân đối phù hợp, quy định này kích thích người sử dụng lao động sử dụng lao động khuyết tật để được hưởng ưu đãi theo nhu cầu mà không ảnh hưởng đển hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình./.

NCS.ThS. Nguyễn Thị Hồng Vân

Đại học Đồng Tháp


[1] WHO, 2022, Global report on health equity for persons with disabilities, https://www.who.int/publications/i/item/9789240063600.

[2] Tổng cục Thống kê Việt Nam (2016), Điều tra quốc gia về người khuyết tật 2016, tr. 15.

[3] Nguyễn Thị Kim Lý (2020), “Một số giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển”, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 3/2020, http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/mot-so-giai-phap-thuc-day-doanh-nghiep-nho-va-vua-phat-trien-325683.html.

[4] Thông tư ngày 15/6/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân cư trú có hoạt động kinh doanh; hướng dẫn thực hiện một số nội dung sửa đổi, bổ sung về thuế thu nhập cá nhân quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 và Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định về thuế.

[5] Nguyễn Thị Luyến (2022), Một số vấn đề trong “chính thức hóa” hộ kinh doanh ở Việt Nam, Viện Chiến lược và chính sách tài chính, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM248590, truy cập ngày 28/03/2023.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi