Chủ nhật 14/12/2025 04:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 - Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp

Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 - Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp

Phát triển vùng là chủ trương xuyêt suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình phát triển đất nước nhằm khai thác, phát huy cao nhất các tiềm năng, lợi thế của các vùng và địa phương trong cả nước để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Phát huy tốt nhất lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới”. Do đó, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành một số nghị quyết về phát triển vùng, trong đó có Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/02/2022 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 11-NQ/TW). Qua đó, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước ta đối với phát triển vùng và cho thấy vị trí, vai trò quan trọng của các vùng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả nước.

1. Sự cần thiết và quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ

1.1. Sự cần thiết ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ

Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ bao gồm 14 tỉnh trực tiếp nằm trong vùng và 21 huyện, 01 thị xã phía Tây của hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Thượng Lào, phía Đông giáp đồng bằng Sông Hồng, phía Nam giáp Bắc Trung Bộ; với tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km², chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, với nhiều tài nguyên, khoáng sản quý hiếm; có hơn 30 dân tộc anh em đang sinh sống, với dân số toàn vùng là 14,7 triệu người, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước; nhân dân trong vùng đoàn kết, cần cù lao động, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Đây là một địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước; cửa ngõ phía Tây và phía Bắc của quốc gia. Đồng thời, đây cũng là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm và diện tích đồi rừng rộng lớn, cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp và nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ[1].

Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng, ngày 01/7/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2020 (Nghị quyết số 37-NQ/TW); ngày 02/8/2012, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 26-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW (Kết luận số 26-KL/TW). Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW và Kết luận số 26-KL/TW, các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng. Một số địa phương đã có sự phát triển bứt phá, tạo nên những điểm sáng trong vùng và cả nước. Kinh tế vùng tăng trưởng khá, đạt mức bình quân trên 10%/năm trong giai đoạn 2005 - 2010 và 8,15%/năm trong giai đoạn 2011 - 2020, cao hơn mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế được mở rộng, đạt 688,9 nghìn tỉ đồng vào năm 2020, chiếm 8,54% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 54,14 triệu đồng/người. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, trong đó thủy điện, kinh tế cửa khẩu và du lịch trở thành những ngành kinh tế quan trọng; cơ cấu lao động chuyển dịch tương đối nhanh, tạo ra nhiều việc làm mới, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở mức thấp. Phát triển văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số đạt được nhiều tiến bộ. Công tác dân tộc, tôn giáo và chính sách xã hội, chính sách đối với người có công được thực hiện tốt; tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh; công bằng xã hội được bảo đảm. Công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng; tỉ lệ che phủ rừng đạt mức cao. Phát triển kinh tế - xã hội được kết hợp chặt chẽ với tăng cường quốc phòng, an ninh, nhất là an ninh biên giới và các địa bàn trọng yếu. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị được đẩy mạnh; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng cao… Diện mạo của vùng đã có nhiều thay đổi, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Những kết quả đạt được trong quá phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh khẳng định Nghị quyết đã thực sự đi vào cuộc sống.

Tuy nhiên, tiềm năng, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là “vùng trũng” trong phát triển và là “lõi nghèo” của cả nước, liên kết vùng còn yếu. Khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong nội vùng so với bình quân cả nước tiếp tục gia tăng. Quy mô kinh tế còn khá nhỏ; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất lượng chưa cao. Cơ cấu nội ngành và giữa các ngành kinh tế chuyển dịch chậm. Các địa phương trong vùng đều chưa cân đối được ngân sách. Hoạt động hợp tác với các địa phương ngoài vùng với các tỉnh của Lào và Trung Quốc còn khá khiêm tốn. Phát triển văn hóa - xã hội vẫn còn nhiều bất cập. Một số phong tục, tập quán lạc hậu còn tồn tại. Chất lượng giáo dục và đào tạo ở một số địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp hơn mức trung bình toàn quốc. Một số chỉ số về chăm sóc sức khỏe người dân còn ở mức thấp. Tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Tình hình an ninh, trật tự trên một số lĩnh vực, tại một số địa bàn chưa thực sự vững chắc…

Bộ Chính trị đã chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phát triển của vùng thời gian qua chủ yếu là do: Tư duy về phát triển chậm được đổi mới, nhất là về liên kết vùng. Còn tư tưởng ỷ lại, trong chờ vào ngân sách nhà nước. Cơ chế, chính sách và việc thực thi chính sách cho phát triển vùng còn bất cập, hạn chế, chưa theo kịp đòi hỏi của thực tế, còn chồng chéo, chủ yếu mang tính hỗ trợ, chưa chú trọng kích thích phát triển. Quy hoạch vùng và quy hoạch từng địa phương trong vùng chất lượng còn thấp, thiếu sự liên kết, đồng bộ, thống nhất, thầm chí mẫu thuẫn, chồng chéo giữa các quy hoạch. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, dàn trải, hiệu quả sử dụng chưa cao. Quản trị phát triển vùng còn nhiều bất cập. Năng lực của bộ máy quản lý nhà nước ở một số nơi còn hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao. Phân cấp, phân quyền cho các địa phương chưa thực sự triệt để. Thiếu thể chế điều phối và kết nối phát triển vùng, nhất là trong việc quản lý và xử lý những vấn đề mang tính toàn vùng.

Do đó, việc ban hành nghị quyết mới về phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là thực sự cần thiết và phù hợp với tình hình hiện tại của vùng.

1.2. Quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ

Từ sau khi ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách tập trung ưu tiên phát triển vùng, đạt được nhiều kết quả, thành tích quan trọng nhưng vẫn còn những hạn chế, yếu kém nhất định. Vì vậy, để tạo sự chuyển biến có tính đột phá trong phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, cần nhận thức sâu sắc những quan điểm sau đây:

Một là, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế - xã hội; môi trường sinh thái; quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển nhanh và bền vững vùng, từng bước thu hẹp trình độ phát triển và mức sống của nhân dân trong vùng so với các vùng khác trong cả nước là nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý nghĩa không chỉ về kinh tế - xã hội mà trước hết là về chính trị, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của các địa phương trong vùng và cả nước.

Hai là, phát triển vùng trung du và miền núi Bắc Bộ phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, bảo đảm thống nhất với hệ thống quy hoạch quốc gia; phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia. Phát triển và khai thác tối đa kết cấu hạ tầng hiện có, nhằm phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế toàn vùng, từng tiểu vùng và từng địa phương trong vùng. Hình thành các hành lang kinh tế, một số vùng động lực, các cực tăng trưởng; phát triển các chuỗi ngành kinh tế, vùng đô thị và công nghiệp, nhằm tạo sự bứt phá cho toàn vùng; xây dựng cơ chế liên kết và điều phối phát triển vùng hiệu lực, hiệu quả; mở rộng quan hệ đối ngoại, nhất là với các địa phương của các nước có chung đường biên giới.

Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp với điều kiện cụ thể của vùng; cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư và kinh doanh để thu hút, sử dụng có hiệu quả nguồn lực của các thành phần kinh tế, nhất là của khu vực kinh tế tư nhân cho phát triển những ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế. Tập trung nguồn vốn đầu tư nhà nước cho hạ tầng giao thông và những địa bàn xa xôi, đặc biệt khó khăn, đóng vai trò trọng yếu trong bảo đảm quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ mới phù hợp với điều kiện thực tế của vùng, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

Bốn là, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; giảm nghèo và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung bảo vệ môi trường đi đôi với khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên rừng, khoáng sản, đất, nước; tăng cường đa dạng sinh học; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Năm là, đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc và phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; phát huy cao độ truyền thống văn hóa, cách mạng, sự cần cù và ý chí tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc trong vùng.

2. Mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Nghị quyết số 11-NQ/TW xác định rất rõ mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thể hiện rõ khát vọng, ý chí và quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, nhất là cấp ủy, chính quyền và đồng bào các dân tộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ.

2.1. Mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045

Phấn đấu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng đồng bằng Sông Hồng, Thủ đô Hà Nội; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch; bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn; đẩy mạnh trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái và an ninh nguồn nước. Một số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước; bản sắc văn hoá các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

Tầm nhìn đến năm 2045, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện; hình mẫu phát triển xanh của cả nước, trong đó có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá trong cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.

2.2. Một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030

- Trong giai đoạn 2021 - 2030, tăng trưởng GRDP vùng đạt 8,0 - 9,0%/năm; đến năm 2030, quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 12 - 13%, công nghiệp - xây dựng chiếm 45 - 46%, dịch vụ chiếm 37 - 38%; GRDP bình quân đầu người đạt 140 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành); tổng thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 190 nghìn tỷ đồng. Tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40%; có 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; mỗi tỉnh có ít nhất 03 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới.

- Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt 65 - 70%; có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35 - 40%; tỉ lệ nghèo đa chiều giảm 2 - 3%/năm. Đạt 32 giường bệnh viện/vạn dân; 11 bác sĩ/vạn dân; 100% trạm y tế xã, phường, thị trấn thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95% dân số.

- Tỉ lệ che chủ rừng đạt khoảng 54 - 55%. Tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị đạt 95 - 100%, ở nông thôn là 93 - 95%. Tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại, chất thải y tế đạt 90%; chất thải rắn đô thị đạt 100%. 100% khu công nghiệp, cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn.

3. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Nghị quyết số 11-NQ/TW đề ra đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về tập trung hoàn thiện thể chế và liên kết vùng; phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng; phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị phù hợp với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và bối cảnh tình hình mới. Cụ thể như sau:

3.1. Tập trung hoàn thiện thể chế phát triển và liên kết vùng

Một là, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành, về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng. Đổi mới tư duy phát triển, nhất là về liên kết vùng; về cơ chế, chính sách đặc thù; về phân bổ nguồn lực; về nguồn nhân lực và tiềm năng, lợi thế nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng; giải quyết các vấn đề trọng điểm quốc gia tại vùng; các vấn đề liên ngành, liên vùng.

Hai là, xây dựng quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện; phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia; bảo đảm tích hợp, đa ngành, gắn kết giữa phát triển nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ; giữa phát triển đô thị với xây dựng nông thôn mới; giữa phát triển kinh tế với quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; hình thành được các chuỗi giá trị ngành, sản phẩm của vùng; là định hướng cho quy hoạch phát triển các địa phương nhằm khai thác hiệu quả và phát huy tiềm năng, lợi thế của từng địa phương trong tổng thể thống nhất vùng.

Ba là, phát triển hệ thống đô thị trong vùng có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, bản sắc, thông minh, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; kết nối nội vùng với các đô thị lớn vùng đồng bằng Sông Hồng thông qua các trục giao thông, hành lang kinh tế. Xây dựng các thành phố Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn trở thành các cực tăng trưởng, hạt nhân quan trọng trong phát triển kinh tế vùng. Chú trọng phát triển đô thị gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh tại nơi có các khu kinh tế cửa khẩu.

Bốn là, ưu tiên phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghệ thông tin đồng bộ, hiện đại và thông minh, gắn với phát triển các hành lang kinh tế; coi đây là một trong những khâu đột phá, tạo nền tảng cho phát triển nhanh, bền vững; thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển và thu nhập bình quân đầu người trong vùng với cả nước. Phát triển chuỗi liên kết khu vực động lực của vùng tại vành đai Bắc Giang - Thái Nguyên - Phú Thọ gắn với vùng Thủ đô; các chuỗi liên kết, trung tâm kinh tế - đô thị vùng gắn với các đô thị vùng biên giới; các cụm liên kết, trung tâm sản xuất điện, điện tử, cơ khí chế tạo trình độ cao tại Thái Nguyên, Bắc Giang; chuỗi liên kết phát triển các sản phẩm nông nghiệp, trong đó đưa Sơn La trở thành trung tâm chế biến sản phẩm nông nghiệp; Tuyên Quang trở thành trung tâm sản xuất và chế biến gỗ; chuỗi liên kết phát triển du lịch, trong đó đưa Lào Cai trở thành trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam Trung Quốc. Thí điểm xây dựng một số khu kinh tế qua biên giới.

Đến năm 2030, hoàn thành các tuyến đường bộ cao tốc, tiền cao tốc; tiếp tục đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường bộ nối các địa phương với đường cao tốc, các đường vành đai biên giới, các tuyến đường quốc lộ quan trọng kết nối các địa phương trong vùng. Nghiên cứu đầu tư và nâng cấp một số cảng hàng không trong vùng (Lai Châu, Điện Biên, Nà Sản, Sa Pa). Hoàn thành dự án đường nối cao tốc Nội Bài - Lào Cai với thành phố Lai Châu; nghiên cứu đầu tư một số tuyến đường thủy trong vùng. Quy hoạch và nghiên cứu huy động nguồn lực đầu tư các tuyến đường sắt điện khí hóa Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng Đăng. Phát triển các hành lang kinh tế như Hà Nội - Bắc Giang - Lạng Sơn - Cao Bằng; Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La - Điện Biên…

3.2. Phát triển nhanh và bền vững kinh tế vùng

Một là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn bình quân chung cả nước; từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, nhất là thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; đẩy mạnh chuyển đổi số; thúc đẩy đổi mới sáng tạo phù hợp với điều kiện thực tế của vùng.

Hai là, phát triển công nghiệp vùng theo hướng ứng dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, trọng tâm là công nghiệp chế biến. Phát triển nông nghiệp vùng theo hướng nông nghiệp hàng hóa hiệu quả cao, sản xuất an toàn, hữu cơ, xanh, sạch, đặc sản; hình thành các vùng chuyên canh với quy mô thích hợp. Phát triển các ngành dịch vụ của vùng theo hướng nâng cao chất lượng và đa dạng hóa. Phát triển các sản phẩm du lịch chủ đạo; nâng cao chất lượng các tuyến du lịch, đẩy mạnh liên kết hoạt động du lịch giữa các tỉnh trong vùng.

Ba là, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh cải cách hành chính, thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân và chọn lọc các dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước, kết hợp với huy động các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển các công trình trọng điểm có sức lan tỏa, giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng. Sửa đổi, bổ sung chính sách tài chính, chính sách thuế đối với các dự án thủy điện quan trọng và hoạt động xuất, nhập khẩu tại các cửa khẩu theo hướng tăng tỉ trọng nguồn thu được phân bổ cho các địa phương trong vùng. Phấn đấu sớm có địa phương có số thu điều tiết về ngân sách trung ương.

Bốn là, tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, đất đai, bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, coi đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là trung tâm trong các quyết định phát triển vùng. Xây dựng thí điểm một số mô hình quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng. Bảo vệ nghiêm ngặt nước đầu nguồn, thực hiện thí điểm cơ chế chia sẻ nguồn nước giữa các ngành trong vùng, giữa vùng với vùng đồng bằng Sông Hồng. Đầu tư đổi mới hệ thống dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn, thiên tai và biến đổi khí hậu vùng.

3.3. Phát triển văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân

Một là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực trong đồng bào dân tộc thiểu số, coi đây là một trong những khâu đột phá cho phát triển nhanh và bền vững. Quy hoạch lại mạng lưới trường, lớp; củng cố và phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc bán trú, trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học. Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và nâng cao năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học cho các trường đại học trong vùng; tập trung đầu tư phát triển một số viện/trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp theo mô hình tiên tiến của thế giới. Sắp xếp lại và đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong vùng. Tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc.

Hai là, tập trung nguồn lực phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các cơ chế, chính sách, chương trình hỗ trợ sản xuất, sinh kế, hỗ trợ nhà ở. Tăng cường chăm lo người có công, công tác bảo trợ xã hội và giảm nghèo; khuyến khích xã hội hóa; gắn công tác giảm nghèo với đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, phát triển các mô hình sinh kế mới, phát triển giáo dục, nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, miền núi. Kiện toàn hệ thống tổ chức y tế địa phương; xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở; tăng cường năng lực y tế dự phòng và phòng, chống dịch.

Ba là, ưu tiên bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thế giới, di tích cấp quốc gia (đặc biệt), di tích lịch sử cách mạng, các di sản văn hóa tiêu biểu đặc trưng vùng và đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Tiếp tục tuyên truyền, vận động người dân tuân thủ các quy định của Nhà nước trong sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo. Kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.

3.4. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về phát triển kinh tế - xã hội phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân. Phát huy hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng; tăng cường đầu tư các công trình lưỡng dụng. Tiếp tục đầu tư và triển khai việc sắp xếp, bố trí dân cư trên tuyến biên giới; đầu tư xây dựng các đường tuần tra biên giới. Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng về quốc phòng, an ninh, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển bền vững.

Hai là, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, chủ động phòng ngừa và đấu tranh, ngăn chặn, vô hiệu hóa mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch. Tăng cường lực lượng hỗ trợ cơ sở, củng cố hệ thống chính trị; xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp chặt chẽ với thế trận quốc phòng toàn dân. Phát huy vai trò người có uy tín, chức sắc tôn giáo trong giải quyết các vấn đề phức tạp, nảy sinh; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội và các loại tội phạm.

3.5. Tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị

Một là, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền. Kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Phấn đấu để các thôn, bản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đều có đảng viên và chi bộ đảng. Thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bảo đảm chất lượng, số lượng, cơ cấu hợp lý, có sự chuyển giao, kế thừa chặt chẽ giữa các thế hệ. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể nhân dân; phát huy hoạt động của các mô hình tự quản tại cộng đồng ở các cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; phát huy cao độ truyền thống văn hóa, cách mạng; sự cần cù và ý chí tự lực, tự cường của nhân dân trong vùng. Xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân vùng giáp biên của nước ta và các nước bạn.

Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 11-NQ/TW, Bộ Chính trị yêu cầu: (i) Các cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân các tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết này. Phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của xã hội, sự tham gia tích cực của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Nghị quyết; (ii) Ban Cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo ban hành Chương trình hành động triển khai Nghị quyết và xây dựng Quy hoạch phát triển vùng, địa phương. Nghiên cứu bảo đảm tính thống nhất về phân chia các tiểu vùng trong vùng. Nghiên cứu xây dựng đề án phát triển một số cực tăng trưởng, trung tâm kinh tế vùng như Thái Nguyên, Bắc Giang, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn. Sớm hoàn thành việc xây dựng và thể chế hóa cơ chế điều phối và kết nối phát triển vùng. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù đối với vùng; (iii) Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương theo trách nhiệm của mình thường xuyên quan tâm, phối hợp với các tỉnh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ để thực hiện Nghị quyết; (iv) Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Bùi Huyền


[1] https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/toan-van-bai-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-quan-triet-trien-khai-nghi-quyet-so-11-cua-bo-chinh-tri-691665.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: