Thứ sáu 27/06/2025 10:55
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phòng ngừa tội phạm mua bán người ở Việt Nam hiện nay bằng giải pháp tác động vào chủ thể và nạn nhân tiềm tang của tội phạm

Tóm tắt: Tội phạm mua bán người ở nước ta thời gian qua diễn biến phức tạp. Để góp phần phòng ngừa tội phạm, trong bài viết này, chúng tôi muốn khái quát nhân thân người phạm tội mua bán người và giải pháp tác động vào chủ thể tiềm tàng của tội phạm mua bán người; nhân thân nạn nhân của tội phạm mua bán người và giải pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm mua bán người.

Abstract: Crime of human trafficking in our country has been complicated in the last time. To contribute to the prevention of crime, in this article, we want to generalize ID offenders of human trafficking and solutions to impact on the subject's potential criminal human trafficking ID the victim of the crime of human trafficking and solutions to impact on potential victims of human trafficking crimes.

1. Khái quát nhân thân người phạm tội mua bán người và giải pháp tác động vào chủ thể tiềm tàng của tội phạm mua bán người

1.1. Khái quát nhân thân người phạm tội mua bán người

Trên cơ sở số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao và kết quả nghiên cứu 92 bản án xét xử tội phạm mua bán người, nhân thân người phạm tội mua bán người được khái quát với các đặc điểm sau đây[1,2]:

Thứ nhất, về giới tính của người phạm tội: Phân tích 4.061 bị cáo đã được xét xử giai đoạn 2004 - 2015, thì số người phạm tội là nam giới có 3.045 người (chiếm 74,98%); số người phạm tội là nữ giới có 1.016 người (chiếm 25,02%). Nghiên cứu 92 bản án, tác giả có những số liệu cụ thể về giới tính của các bị cáo phạm tội mua bán người như sau: Trong số 230 bị cáo thì số người phạm tội là nam giới có: 79 người (chiếm 34,35%); số người phạm tội là nữ giới có: 151 người (chiếm 65,65%).

Thứ hai, về độ tuổi của người phạm tội: Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, thì số người phạm tội là người chưa thành niên có: 154 người (chiếm 3,79%); số người phạm tội là người đã thành niên có: 3.907 người (chiếm 96,21%). Trong đó người từ đủ 18 đến 30: Có 1.127 người (chiếm 27,75%); người trên 30 tuổi: Có 2.780 người (chiếm 68,46%). Phân tích 92 bản án, với 230 bị cáo, thì số người phạm tội là người chưa thành niên có: 13 người (chiếm 5,65%); số người phạm tội là người đã thành niên có: 217 người (chiếm 94,34%). Trong đó người từ đủ 18 đến 30: Có 59 người (chiếm 25,65%); người trên 30 tuổi: Có 158 người (chiếm 68,69%).

Thứ ba, về trình độ học vấn của người phạm tội: Qua phân tích nhân thân của 230 bị cáo mà Tòa án các cấp đã đưa ra xét xử thì có đến 34 bị cáo không biết chữ, chiếm tỷ lệ 14,78%; tiểu học 94 bị cáo, chiếm 40,86%; trung học cơ sở 68 bị cáo, chiếm 29,56%, trung học phổ thông 34 bị cáo, chiếm 14,78%, không có bị cáo nào có trình độ đại học hoặc sau đại học. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, trình độ học vấn của các bị cáo rất thấp. Điều này, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến nhận thức của các bị cáo về hành vi phạm tội.

Thứ tư, về nghề nghiệp của người phạm tội: Qua phân tích nhân thân 230 bị cáo mà Tòa án đã xét xử cho thấy, đa số người phạm tội là không có việc làm hoặc nghề nghiệp của họ thường không ổn định. Cụ thể: Có đến 69/230 bị cáo không có việc làm (chiếm 30%); buôn bán 34/230 (chiếm 14,78%); làm thuê 34/230 (chiếm 14,78%); nội trợ 28/230 (chiếm 12,17%); làm ruộng 24/230 (chiếm 10,43%); chạy xe ôm 12/230 (chiếm 5,2%); số bị cáo còn lại làm các nghề khác như: Nhân viên, giám đốc, thương gia, thợ chụp hình, phụ hồ, nghề tự do, sinh viên, tài xế...

Thứ năm, về tiền án, tiền sự của người phạm tội: Qua nghiên cứu về nhân thân của 230 bị cáo cho thấy, đa số các bị cáo chưa có tiền án tiền sự (211/230, chiếm tỷ lệ 91,73%), chỉ có 19 bị cáo có tiền án, tiền sự (chiếm 8,26%), trong đó có 04 bị cáo có tiền án, tiền sự; 01 bị cáo có tiền sự và 14 bị cáo có tiền án và theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì trong 4.061 bị cáo, có 46 trường hợp là tái phạm và tái phạm nguy hiểm, chiếm tỷ lệ 1,13%. Điều này cho thấy, bên cạnh các bị cáo có tiền án, tiền sự thì có rất nhiều bị cáo chưa có tiền án, tiền sự cũng tham gia vào việc phạm tội.

Thứ sáu, về dân tộc của người phạm tội: Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì từ năm 2004 - 2015, có 1.211 bị cáo là người dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 29,82% (1.211/4.061) và 46 bị cáo là người nước ngoài, chiếm tỷ lệ 1,13% (46/4.061). Như vậy, đối với tội phạm mua bán người do tính chất xuyên vùng, xuyên quốc gia nên đối với tội phạm này có sự tham gia của cả người dân tộc thiểu số và người nước ngoài.

1.2. Giải pháp tác động vào chủ thể tiềm tàng của tội phạm mua bán người

Chủ thể tiềm tàng của tội phạm mua bán người tại Việt Nam trong thời gian tới được xác định là những người không có công ăn việc làm hoặc việc làm không ổn định, người phạm tội mua bán người đã bị xét xử, chấp hành xong hình phạt trở lại tái hòa nhập cộng đồng; những người đã từng là nạn nhân của tội phạm mua bán người... Những người này dễ trở thành tội phạm vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn, đã biết các thủ đoạn của tội phạm, mặc cảm tội lỗi, sự kỳ thị của cộng đồng và đặc biệt là sự cám dỗ của lợi nhuận mà tội phạm mang đến. Vì vậy, để phòng ngừa tội phạm mua bán người, cần có các giải pháp sau:

Một là, tăng cường phát triển kinh tế trong cộng đồng, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống của người dân; kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nhất là tại các vùng nông thôn, miền núi.

Hai là, đẩy mạnh các hoạt động quản lý hành chính về an ninh trật tự như: Tăng cường các biện pháp quản lý giáo dục đối với các đối tượng có tiền án, tiền sự, có biểu hiện vi phạm pháp luật tại cộng đồng; tăng cường trách nhiệm của chính quyền các cấp trong việc quản lý nhân khẩu, hộ khẩu, hộ tịch, tạm trú, tạm vắng trên các địa bàn dân cư; quản lý các ngành nghề kinh doanh, dịch vụ có điều kiện và các loại hình dịch vụ khác có liên quan đến tội phạm mua bán người như: Dịch vụ du lịch, xuất khẩu lao động...

Ba là, chú trọng triển khai chương trình đào tạo nghề, giáo dục pháp luật, tâm lý để họ nhận thức được hành vi phạm tội và cải tạo họ, đồng thời trang bị cho họ nghề để họ dễ dàng hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt. Đẩy mạnh các chính sách hỗ trợ người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng để họ có điều kiện làm việc, tự nuôi sống bản thân, không quay về con đường phạm tội.

Bốn là, tăng cường quản lý hộ tịch, xuất nhập cảnh, cho nhận con nuôi... để sớm phát hiện những dấu hiệu của tội phạm từ đó nâng cao hiệu quả công tác khám phá án; tăng cường công tác tuần tra, rà soát các địa bàn trọng điểm là điểm nóng của tình hình tội phạm mua bán người. Phối hợp với các lực lượng chức năng thường xuyên mở các đợt cao điểm, chuyên án tấn công tội phạm mua bán người.

Năm là, các cơ quan hữu quan như: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Ủy ban nhân dân các cấp chú trọng công tác phối hợp xét xử lưu động các vụ án về mua bán người tại các địa bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, đảm bảo hiệu quả phòng ngừa chung. Cần điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật một cách kịp thời, đúng pháp luật để người phạm tội thấy được tính nghiêm minh của pháp luật, phải chấp hành nghiêm pháp luật và không tái phạm. Mặt khác, cần xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung; không áp dụng án treo đối với các bị cáo phạm tội với vai trò chủ mưu, đứng đầu trong các vụ án mua bán người.

Sáu là, các cấp chính quyền, tổ chức đoàn thể đặc biệt là các trại tạm giam, tạm giữ, các cán bộ quản giáo chú trọng công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, quan tâm, giúp đỡ người phạm tội nhận thức được hành vi của mình và cố gắng vươn lên trong cuộc sống.

Bảy là, cần có cơ chế, chính sánh hỗ trợ cần thiết giúp những người phạm tội nói chung và phạm tội mua bán người nói riêng, sau khi chấp hành xong hình phạt trở về tái hòa nhập cộng đồng, không bị kỳ thị và có điều kiện công ăn, việc làm để kiếm sống nuôi sống bản thân và trở thành người có ích cho xã hội. Có như vậy sẽ hạn chế được việc người phạm tội quay lại con đường cũ, tái phạm, tái phạm nguy hiểm.

Tám là, gia đình cần quan tâm giúp đỡ người thân, con em mình, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để người phạm tội có điều kiện hòa nhập cộng đồng. Phân tích cho họ thấy những sai trái trước đây họ đã phạm phải, đồng thời động viên, giúp đỡ người phạm tội. Gia đình phải thật sự trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người phạm tội tái hòa nhập cộng đồng.

2. Khái quát nhân thân nạn nhân của tội phạm mua bán người và giải pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm mua bán người

2.1. Khái quát nhân thân nạn nhân của tội phạm mua bán người

Trên cơ sở số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao và kết quả nghiên cứu 92 bản án xét xử tội phạm mua bán người, nhân thân nạn nhân của tội phạm mua bán người được khái quát với các đặc điểm sau đây[3,4]:

Thứ nhất, về giới tính của nạn nhân: Theo nghiên cứu 92 bản án với 386 người bị hại cho thấy, có đến 385 người bị hại là nữ chiếm tỷ lệ 99,7%, chỉ có 01 người bị hại là nam chiếm tỷ lệ 0,3%. Hoặc theo số liệu thống kê của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ năm 2005 - 2010, có đến 4.620/4.728 nạn nhân là nữ, chiếm tỷ lệ 97,71%. Như vậy, tuyệt đại đa số nạn nhân của tội phạm mua bán người giai đoạn 2004 - 2015 là nữ.

Thứ hai, về độ tuổi của nạn nhân: Nghiên cứu 386 người bị hại bị mua bán từ 92 bản án, có 218 người bị hại ở độ tuổi từ 16 đến 20 (56,48%), 102 người bị hại ở độ tuổi từ 21 đến 25 (26,42%) và 66 người bị hại từ 26 tuổi trở lên (17,09%). Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Văn Sỹ phân tích trên 2.936 nạn nhân bị mua bán ra nước ngoài trở về thì có đến 95% số nạn nhân có độ tuổi trên 16 tuổi5 hay kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Hương phân tích 60 trường hợp phụ nữ ở tỉnh An Giang bị mua bán (1998 - 2005), cho thấy, cả 60 phụ nữ được nghiên cứu đều ở độ tuổi từ 16 đến 25 tuổi, trong đó có 31,67% ở độ tuổi 16; 28,3% ở độ tuổi 17; 13,3% ở độ tuổi 18; 8,3% ở độ tuổi 19; 6,67% ở độ tuổi 20; từ 21 đến 25 tuổi có 8 phụ nữ (13,3%)6.

Thứ ba, về trình độ học vấn của nạn nhân: Theo Báo cáo số 298/BCA (C11) ngày 13/10/2005 của Bộ Công an gửi Thủ tướng Chính phủ có nhận định: “Phần lớn phụ nữ bị mua bán... có trình độ văn hóa thấp...”7. Báo cáo số 380, Báo cáo số 43/BCA và Báo cáo số 1331/C14 (VP 130/CP) của Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo 130/CP còn nêu rõ: “Về trình độ văn hóa: Không biết chữ chiếm 26%, học cấp 1- cấp 2 chiếm 71%, cấp 3 chiếm 3%...”8.

Thứ tư, về hoàn cảnh gia đình của nạn nhân: Trong Báo cáo của Bộ Công an gửi Thủ tướng Chính phủ có khẳng định:“Phần lớn phụ nữ... bị buôn bán là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu việc làm, hoàn cảnh gia đình éo le...”9. Báo cáo số 380 và Báo cáo số 43/BCA của Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 130/CP còn nêu rõ các phụ nữ bị mua bán: “Về hoàn cảnh gia đình: 88% kinh tế khó khăn, 11,7% kinh tế trung bình, 0,3% kinh tế khá...”10. Báo cáo số 1331/C14 nêu rõ: “Đa số nạn nhân đều có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc trắc trở trong đường tình duyên, song cũng không ít phụ nữ là gái mại dâm, ăn chơi đua đòi trác táng hoặc một số người do làm ăn thua lỗ, nợ nần nhiều, muốn kiếm việc làm có thu nhập cao để thay đổi cuộc sống và không ít trong số đó đã bị lừa đưa ra nước ngoài bán”11.

Thứ năm, về nghề nghiệp và việc làm của nạn nhân: Theo kết quả nghiên cứu về thực trạng phụ nữ, trẻ em bị lừa bán ra nước ngoài do Bộ Công an hợp tác với Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) thực hiện thì trong số trên 1.750 nạn nhân của những vụ mua bán người, nghề nghiệp của các nạn nhân trước khi bị lừa bán ra nước ngoài chủ yếu là làm ruộng và thất nghiệp. Theo kết quả phân tích 60 trường hợp phụ nữ ở tỉnh An Giang bị mua bán (1998 - 2005) của tác giả Nguyễn Văn Hương cho thấy: 42 phụ nữ trước khi bị bán không có nghề nghiệp (70%), 5 phụ nữ làm nghề nội trợ (8,33%), 13 phụ nữ trước khi bị bán sống bằng nghề làm thuê (21,67%)12.

2.2. Giải pháp tác động vào nạn nhân tiềm tàng của tội phạm mua bán người

Một là, tăng cường giáo dục và tuyên truyền vì thực hiện tốt giải pháp này là tác động đến nhận thức của từng cá thể trong xã hội, từ đó xây dựng được ý thức phòng, chống tội phạm mạnh mẽ và bền vững trong quần chúng nhân dân. Trên thực tế có rất nhiều người không biết về nạn mua bán người. Một số khác có thể có một chút hiểu biết song không đầy đủ hoặc hiểu không chính xác. Chính sự nhận thức yếu kém của người dân và cộng đồng là điểm yếu để tội phạm mua bán người lợi dụng và thực hiện tội phạm.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn tội phạm mua bán người không những tại những địa bàn trọng điểm mà phải đẩy mạnh công tác này trên phạm vi cả nước và phải thực hiện thường xuyên, liên tục. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên truyền chiều sâu ở địa bàn dân cư nhằm nâng cao cảnh giác cho chị em phụ nữ và cộng đồng trước những thủ đoạn của tội phạm mua bán người. Tuyên truyền tại các điểm nóng của nạn mua bán người hoặc những địa bàn có phụ nữ bỏ đi khỏi nơi cư trú, thường đi kèm với các hành vi đặc trưng (ví dụ đưa nữ giới đi bán làm vợ và trẻ em đi làm con nuôi, du lịch tình dục hay lừa bán nữ sinh qua Internet ở các đô thị, môi giới lấy chồng nước ngoài thu lợi bất chính...). Do đó, cần xác định đối tượng cụ thể cho các biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng địa bàn, vừa tăng hiệu quả lại vừa tới được đối tượng có nguy cơ cao.

Ba là, cần xác định phòng, chống tội phạm mua bán người là vấn đề mang tính xã hội, lấy phòng ngừa là chính. Các bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ đạo, đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền tác hại của tội phạm mua bán người đối với gia đình và xã hội, tuyên truyền, phổ biến những chính sách pháp luật có liên quan trong việc phòng, chống tội phạm mua bán người đến mọi người dân, tổ chức để mọi công dân chấp hành pháp luật, cảnh giác với tội phạm này, từ đó tạo dư luận lên án hành vi mua bán người, với nhiều hình thức truyền thông gián tiếp, trực tiếp như: Báo nói, báo viết, báo hình, tư vấn, thảo luận, kết hợp với những giờ học ngoại khóa, dàn dựng các tiểu phẩm liên quan đến tội phạm mua bán người làm cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ; thường xuyên xây dựng và nhân rộng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong phòng ngừa tội phạm mua bán người... Nội dung tuyên truyền phải phong phú, ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với từng lứa tuổi, từng đối tượng, từng vùng miền. Trong đó, xác định nội dung trọng tâm và xuyên suốt là tập trung nâng cao trình độ pháp luật, tầm quan trọng, kiến thức về phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm mua bán người nói riêng.

Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động phòng ngừa từ gia đình. Nâng cao nhận thức cho mọi thành viên trong gia đình về thủ đoạn, phương thức thực hiện của tội phạm mua bán người. Thắt chặt quan hệ trong gia đình bằng các hoạt động cụ thể như: Quan tâm, chăm sóc, quản lý, giáo dục con cái (nhất là trẻ em gái), tìm hiểu tâm tư tình cảm của các thành viên trong gia đình để kịp thời chỉ dạy, định hướng, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc. Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình, ngăn ngừa bạo lực với phụ nữ và trẻ em. Tích cực học hỏi, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống, xây dựng gia đình văn hóa. Kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình gặp khó khăn, những nạn nhân bị mua bán trở về. Trường hợp nghi vấn có hành vi mua bán người phải kịp thời báo chính quyền địa phương hoặc công an nơi gần nhất.

Năm là, nâng cao tính cảnh giác của mỗi cá nhân thông qua các hoạt động như: Cảnh giác với các thủ đoạn dụ dỗ, lừa gạt, những lời hứa đường mật của tội phạm mua bán người; tham khảo ý kiến người thân, bạn bè trước khi quyết định đi làm ăn xa. Nếu đi khỏi địa phương phải báo cáo chính quyền địa phương, thông báo địa chỉ và thường xuyên giữ mối liên hệ với gia đình. Tuyên truyền cho những người xung quanh biết về thủ đọan lừa gạt của tội phạm mua bán người để mọi người cùng cảnh giác.

Sáu là, tăng cường các giải pháp hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân của tội phạm mua bán người. Thực tiễn công tác tái hòa nhập cộng đồng cho nạn nhân bị mua bán cho thấy, để giúp nạn nhân tái hòa nhập được một cách bền vững thì cần phải xây dựng “cơ chế tái hòa nhập trọn gói”, trong đó bao gồm những loại dịch vụ cần có dành cho các nạn nhân như: Hỗ trợ về y tế, tham vấn/hỗ trợ tâm lý, giáo dục kỹ năng sống, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, trợ giúp pháp lý... Cần có những chính sách động viên, xóa bỏ mặc cảm và hỗ trợ ổn định cuộc sống ban đầu cho những nạn nhân bị mua bán trở về, những người hồi hương, phụ nữ mại dâm hoàn lương...

Bảy là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nạn nhân tội phạm mua bán người mạnh dạn tố giác tội phạm. Bên cạnh việc xây dựng các cơ chế bảo vệ, bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, cần phải giữ bí mật đời tư, danh tính của nạn nhân; cần có cái nhìn thiện cảm và chân thành để tạo niềm tin, chỗ dựa cho họ. Bên cạnh các giải pháp, chính sách hỗ trợ như việc làm, học nghề, trợ cấp khó khăn... thì quan tâm chú ý đến các hỗ trợ tâm lý xã hội để nạn nhân của tội phạm mua bán người có sức khỏe tinh thần, bước quyết định của tái hòa nhập cộng đồng.

Tám là, tăng cường công tác phối hợp giữa các lực lượng chức năng của Việt Nam với các nước mà Việt Nam có chung đường biên giới, đặc biệt là Trung Quốc, để kịp thời triệt phá, giải cứu nạn nhân của các đường dây tội phạm mua bán người. Mặt khác, tăng cường công tác phối hợp với các nước là điểm đến của tội phạm mua bán người như: Malaysia, Mỹ, Úc...

TS. Đỗ Đức Hồng Hà

Ủy viên thường trực Ủy ban tư pháp của Quốc hội khóa XIV


ThS. Nguyễn Mai Trâm

Tài liệu tham khảo:

[1]. Tòa án nhân dân, 92 bản án các loại về tội phạm mua bán người.

[2]. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Thống kê số vụ mua bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2015.

[3]. Tòa án nhân dân, 92 bản án các loại về tội phạm mua bán người.

[4]. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Thống kê số vụ mua bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2015.

[5]. Phạm Văn Sỹ (2012), Hợp tác quốc tế trong giải cứu nạn nhân các vụ mua bán người, Tạp chí Công an nhân dân, kỳ 1 - 4/2012, tr.65.

[6]. Nguyễn Văn Hương (2008), Vấn đề nạn nhân của tội mua bán phụ nữ ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 5/2008, tr.12-18.

[7]. Bộ Công an (2005), Báo cáo số 298/BCA (C11) ngày 13/10/2005 gửi Thủ tướng Chính phủ, tr.3-5.

[8]. Ban Chỉ đạo 130/CP (2005), Báo cáo số 380/BCA (VPTT130/CP) ngày 21/12/2015 sơ kết một năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, tr.2. Ban Chỉ đạo 130/CP, Báo cáo số 43/BCA (VPTT130/CP) ngày 28/02/2006 kiểm điểm thực hiện Chương trình 130/CP năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006.

[9]. Bộ Công an (2005), Báo cáo số 298/BCA (C11) ngày 13/10/2005 gửi Thủ tướng Chính phủ, tr.3-5.

[10]. Ban Chỉ đạo 130/CP (2005), Báo cáo số 380/BCA (VPTT130/CP) ngày 21/12/2015 sơ kết một năm thực hiện Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, tr.2. Ban Chỉ đạo 130/CP, số 43/BCA (VPTT130/CP) ngày 28/02/2006, Báo cáo kiểm điểm thực hiện Chương trình 130/CP năm 2005 và phương hướng công tác năm 2006, tr.4-6.

[11]. Ban Chỉ đạo 130/CP (2006), Báo cáo tổng quan số 1331/BCA (VPTT130/CP) ngày 25/5/2006 thực trạng tình hình và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em. tr.3.

[12]. Nguyễn Văn Hương (2008), Vấn đề nạn nhân của tội mua bán phụ nữ ở Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 5/2008, tr.12-18.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm