Thứ sáu 13/06/2025 09:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích, đánh giá về thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.


Abstract: The article analyzes, assesses the real situation of Vietnamese current legal provisions on using commercial indications causing confusion aimed at unfair competition, from that point, makes some recommendations for law completion.

1. Nhận diện hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn

Chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn là chỉ dẫn thương mại có chứa các dấu hiệu (yếu tố cấu thành, cách trình bày, cách kết hợp giữa các yếu tố, màu sắc, ấn tượng tổng quan đối với người tiêu dùng) trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn thương mại tương ứng của chủ sở hữu hợp pháp có quyền yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc sử dụng chỉ dẫn nêu trên là nhằm mục đích gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ, xuất xứ địa lý, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ, hoặc về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ... Theo khoản 3 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, thì hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn có thể chia thành 2 nhóm:

Thứ nhất, hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ
Hành vi này làm cho người tiêu dùng tưởng rằng hàng hóa, dịch vụ của người có hành vi gây nhầm lẫn cùng do doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh sản xuất, cung cấp; hoặc hai loại hàng hóa, dịch vụ có chỉ dẫn thương mại giống nhau hoặc tương tự nhau là do các chủ sở hữu có mối liên hệ, quan hệ hợp tác nhất định. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn, thông thường, đối tượng mà chủ thể vi phạm tác động tới là việc sử dụng tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh... Tuy nhiên, để tạo ra sự nhầm lẫn và gây hậu quả nhất định bởi sự nhầm lẫn cho khách hàng, tên thương mại trong trường hợp này cần mang tính độc đáo nhất định. Trái lại, không bị coi là hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) nếu tên thương mại là thông dụng và phổ biến.

Thứ hai, hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ, về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ
Hành vi này khiến cho người tiêu dùng nhầm lẫn hàng hóa, dịch vụ này với hàng hóa, dịch vụ khác về tính năng, số lượng, chủng loại, chất lượng; về điều kiện cung cấp, điều kiện hậu mãi... hoặc về cách thức, quy trình sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ... Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm CTKLM chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (SHCN), thể hiện ở việc doanh nghiệp vi phạm bắt chước các dấu hiệu phân biệt của sản phẩm của đối thủ cạnh tranh như: Nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hàng hóa, khẩu hiệu kinh doanh, kiểu dáng bao bì hàng hóa, làm cho khách hàng vì bị nhầm lẫn mà mua sản phẩm, dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Do đó, nhóm hành vi này thường được điều chỉnh bởi pháp luật sở hữu trí tuệ (SHTT).

2. Nhận diện hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đều có quy định điều chỉnh hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể:

2.1. Các dấu hiệu của hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn

Luật Cạnh tranh năm 2004 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 mới chỉ quy định thế nào là chỉ dẫn thương mại, liệt kê một số chỉ dẫn thương mại và liệt kê các hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn. Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN ngày 26/6/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ lần đầu tiên nêu lên khái niệm chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn tại điểm c khoản 1 Điều 19, đó là: “Chỉ dẫn thương mại chứa các dấu hiệu (yếu tố cấu thành, cách trình bày, cách kết hợp giữa các yếu tố, màu sắc, ấn tượng tổng quan đối với người tiêu dùng) trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn thương mại tương ứng của chủ thể quyền yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh được sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự”. Mặc dù pháp luật về SHTT đã có hướng dẫn cụ thể về hành vi xâm phạm quyền SHTT do sử dụng các chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn, nhưng chưa có các quy định cụ thể về dấu hiệu và căn cứ xác định đối với hành vi CTKLM sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn. Vì vậy, căn cứ vào đặc điểm của hành vi CTKLM, đặc điểm của chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn, có thể chỉ ra các dấu hiệu để xác định hành vi CTKLM sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn, bao gồm:

a. Mục đích của hành vi

Mục đích cụ thể của hành vi CTKLMsử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn là gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ, xuất xứ địa lý, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ, hoặc về điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ để cạnh tranh với đối thủ bị gây nhầm lẫn[1]. Việc xác định người tiêu dùng có nhầm lẫn giữa hàng hóa, dịch vụ là đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ với hàng hóa, dịch vụ do người thực hiện hành vi bị coi là CTKLM tạo ra hay không, có thể dựa trên kết quả khảo sát thị trường, dựa trên đánh giá cảm quan về sự tương tự gây nhầm lẫn về dấu hiệu sử dụng; tương tự gây nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ.

b. Đối tượng của hành vi
Đối tượng của hành vi sử dụng là các chỉ dẫn thương mại. Điều 40 Luật Cạnh tranh năm 2004 có liệt kê một số đối tượng mà hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn xâm phạm đến như: Tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý. Khoản 2 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng xác định: “Chỉ dẫn thương mại là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ”. Chỉ dẫn thương mại cũng có các dấu hiệu như: Khả năng phân biệt (chức năng chỉ dẫn) cho phép người tiêu dùng trung bình có thể phân biệt được hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác hoặc phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác; khả năng nhìn thấy được, đó có thể là yếu tố màu sắc, cách trình bày, cách kết hợp các yếu tố; khả năng dùng được trong thương mại (có thể sản xuất hàng loạt)… Chỉ dẫn thương mại phải là đối tượng đã được đăng ký bảo hộ; đối với việc xác định hành vi CTKLM liên quan đến các chỉ dẫn thương mại, các chỉ dẫn thương mại không nhất thiết phải được đăng ký bảo hộ nhưng điều kiện tiên quyết phải chứng minh được việc đã đưa vào sử dụng trong hoạt động thương mại, tạo dựng được uy tín nhất định trên thị trường và được người tiêu dùng biết đến rộng rãi[2]. Việc xác định dấu hiệu này có thể căn cứ vào thời gian xuất hiện trên thị trường; phạm vi truyền thông, quảng bá đến người tiêu dùng; mức độ nhận biết, tín nhiệm của người tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ, thị phần của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường...

Điểm b khoản 1 Điều 19 Thông tư số 11/2015/TT- BKHCN ngày 26/6/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ đã liệt kê một số chỉ dẫn thương mại là đối tượng của hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn như: “Nhãn hàng hóa” là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của hàng hóa thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa để người tiêu dùng nhận biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng; để nhà sản xuất, kinh doanh quảng bá cho hàng hóa của mình và để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát; “Khẩu hiệu kinh doanh” là một nhóm từ ngữ xuất hiện bên cạnh tên doanh nghiệp hoặc nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp nhằm nhấn mạnh mục đích hoặc tiêu chí kinh doanh của doanh nghiệp hoặc đối tượng khách hàng mà sản phẩm hướng tới; “Biểu tượng kinh doanh” là ký hiệu, chữ viết, hình vẽ, hình khối được thiết kế một cách độc đáo và được coi là biểu tượng của doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh doanh; “Kiểu dáng bao bì hàng hóa” là thiết kế, trang trí bao bì hàng hóa, gồm hình dạng, đường nét, hình vẽ, chữ, số, màu sắc, cách trình bày, cách phối hợp màu sắc, cách bố trí, kết hợp giữa các yếu tố nói trên tạo nên ấn tượng riêng hay nét đặc trưng của bao bì hàng hóa[3].
Như vậy, nếu so với pháp luật cạnh tranh, pháp luật SHCN quy định rõ ràng và đầy đủ hơn các chỉ dẫn thương mại là đối tượng của hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn. Tuy nhiên, có một đối tượng mà cả pháp luật cạnh tranh và pháp luật SHCN không liệt kê, nhưng thực tế vẫn tồn tại hành vi CTKLM là kiểu dáng công nghiệp. Các chỉ dẫn thương mại này khi bị các doanh nghiệp trên thị trường lợi dụng tạo ra các yếu tố trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn sẽ làm sai lệch nhận thức, dẫn đến lựa chọn không đúng mong muốn của người tiêu dùng.

c. Phương thức thực hiện hành vi
Theo Điều 124 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, việc sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn được hiểu là việc thực hiện một trong các hành vi: (i) Gắn chỉ dẫn gây

nhầm lẫn lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; (ii) Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang chỉ dẫn gây nhầm lẫn; (iii) Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

2.2. Các nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
Căn cứ Điều 40 Luật Cạnh tranh năm 2004, các hành vi CTKLM liên quan đến sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn gồm hai nhóm:
Thứ nhất, hành vi sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ mang chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
Biểu hiện cụ thể của hành vi này là việc doanh nghiệp gắn chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo, thiết kế kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm gây nhầm lẫn... Có một vụ việc thực tế điển hình là năm 2013, Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam khiếu nại đến Thanh tra Bộ Khoa học và Công đến về hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn về kiểu dáng chai dầu gội đầu dược liệu Thái Dương 3 của Công ty Cổ phần Sao Thái Dương. Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã tiến hành thanh tra và ra Quyết định số 63/QĐ-XPVPHC ngày 16/9/2013 xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Sao Thái Dương về hành vi sử dụng kiểu dáng chai đựng dầu gội đầu (đặc điểm tạo dáng, cách trình bày, màu sắc...) tương tự với chỉ dẫn thương mại là kiểu dáng chai sản phẩm dầu gội đầu “Sunsilk” của Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam đã sử dụng rộng rãi, ổn định, lâu dài từ năm 2008. Đây là hành vi CTKLM về SHCN quy định tại Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. Ở vụ việc này, do Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam chưa đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đối với chai đựng dầu gội đầu “Sunsilk” nên không khiếu nại theo hướng hành vi xâm phạm quyền SHCN, mà khiếu nại về hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nhằm CTKLM. Công ty này đã chứng minh được: (i) Chỉ dẫn thương mại đã được Công ty sử dụng rộng rãi, ổn định và được nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam biết đến do có hệ thống đại lý phân phối trên khắp Việt Nam và đã quảng cáo rộng rãi dưới nhiều hình thức khác nhau để giới thiệu sản phẩm tới đông đảo người tiêu dùng tại Việt Nam; (ii) Hành vi sử dụng chỉ dẫn có gây nhầm lẫn do sản phẩm “dầu gội dược liệu Thái Dương 3 là hoàn toàn trùng với kiểu dáng chai đã sử dụng cho sản phẩm dầu gội “Sunsilk” từ năm 2008 đến nay[4]...

Vụ việc xảy ra vào năm 2013, Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ đã căn cứ khoản 8 Điều 14 Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về SHCN để xử lý. Tuy nhiên hiện nay, Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 14 Nghị định 97/2010/NĐ-CP đã được thay thế bởi Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 có quy định về hành vi CTKLM do sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn, nhưng khái niệm chỉ dẫn thương mại không bao gồm kiểu dáng công nghiệp và trong các chỉ dẫn gây nhầm lẫn được liệt kê cũng không có kiểu dáng công nghiệp. Do đó, câu hỏi đặt ra là kiểu dáng công nghiệp được coi là một loại chỉ dẫn thương mại hay là một dạng của kiểu dáng bao bì sản phẩm để có thể áp dụng quy định này? Vụ việc cũng cho thấy, cần thiết phải bổ sung kiểu dáng công nghiệp gây nhầm lẫn vào nhóm các chỉ dẫn thương mại để ngăn chặn nhóm hành vi CTKLM do sử dụng kiểu dáng công nghiệp gây nhầm lẫn xảy ra khá nhiều trong thời gian gần đây.

Thứ hai, hành vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn
Biểu hiện cụ thể của hành vi này là việc doanh nghiệp bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu hàng hóa có gắn chỉ dẫn thương mại đó. Trên thực tế, có rất nhiều doanh nghiệp, cửa hàng đại lý bán nước mắm có chỉ dẫn địa lý trên nhãn hàng hóa là “Nước mắm Phú Quốc”, nhưng thực tế không biết nước mắm đó có thực sự được sản xuất tại Phú Quốc hay không?

3. Một số nhận xét và kiến nghị
Những phân tích ở trên cho thấy, đối với việc quy định hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại nhằm CTKLM theo pháp luật Việt Nam còn một số tồn tại như:
- Có nhiều quy định pháp luật nằm rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh về một loại hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN. Điều này gây khó khăn trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
- Khái niệm hành vi CTKLM được quy định tại khoản 4 Điều 3 và các hành vi cụ thể được liệt kê tại Điều 39 Luật Cạnh tranh. Khoản 10 Điều 39 quy định về các hành vi CTKLM khác, nhưng chưa có một văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Nếu phát sinh hành vi CTKLM mới không nằm trong số danh sách các hành vi đã được quy định, thì có được căn cứ khoản 10 Điều 39 để áp dụng không? Cơ quan nào có quyền giải thích, áp dụng điều này.
- Theo quy định của khoản 1 Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi CTKLM được thực hiện liên quan đến các đối tượng là chỉ dẫn thương mại, nhãn hiệu và tên miền... Bên cạnh đó, điểm b khoản 1 Điều 19 Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN cũng quy định cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là kiểu dáng công nghiệp có được coi là một yếu tố trong chỉ dẫn thương mại và là đối tượng của hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHCN không? Trên thực tế hoạt động sản xuất, kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp cũng có vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu xây dựng thương hiệu, thu hút người tiêu dùng. Đã có ý kiến cho rằng, nhãn hiệu thường chỉ là hình thức bên ngoài, có thể gây ấn tượng đầu tiên cho khách hàng tiềm năng, nhưng một kiểu dáng bắt mắt thường nhanh chóng chiếm được sự trung thành với thương hiệu, như là trường hợp sản phẩm Ipad của hãng Apple. Chính vì tầm quan trọng của kiểu dáng công nghiệp trong việc làm tăng giá trị sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như vậy, nên trên thực tế không ít trường hợp các đối thủ cạnh tranh sao chép, bắt chước kiểu dáng công nghiệp của doanh nghiệp nhằm có được lợi thế cạnh tranh của người tiêu dùng.
Từ những tồn tại ở trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:

- Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh mặc dù mang bản chất là hành vi CTKLM nhưng thuộc lĩnh vực hẹp hơn, do đó, không nên quy định trong Luật Cạnh tranh, mà để luật chuyên ngành (Luật Sở hữu trí tuệ) điều chỉnh sẽ bớt chồng chéo, trùng lặp.
- Trao quyền cho cơ quan hướng dẫn thi hành (có thể là Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc Tòa án thông qua các án lệ) xác định các loại hành vi CTKLM mới xuất hiện ngoài các hành vi đã được liệt kê (như hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn là kiểu dáng công nghiệp của hàng hóa).
- Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ có đề cập “kiểu dáng bao bì” là một loại chỉ dẫn thương mại nhưng chưa làm rõ kiểu dáng bao bì có bao gồm kiểu dáng công nghiệp của hàng hóa không. Vì vậy, cần bổ sung kiểu dáng công nghiệp là một trong các yếu tố của “chỉ dẫn thương mại” .

ThS. Nguyễn Phương Thảo

Đại học Thành Tây

Tài liệu tham khảo:

[1]. Yves Serra (1993), Le droit francais de la concurrence, Nxb Dalloz.
[2]. Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội, 2006.
[3]. Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN ngày 26/6/2015 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 99/2013/nđ-cp ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội, 2015.
[4]. “Pháp luật chống CTKLM trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Vũ Quỳnh Lâm, Đại học Luật Hà Nội, 2006.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm