Thứ bảy 21/06/2025 05:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thỏa thuận nhận tội trong hệ thống tư pháp hình sự Hoa Kỳ

Tóm tắt: Thỏa thuận nhận tội là một cơ chế có lịch sử tồn tại lâu dài tại Hoa Kỳ. Cơ chế này có những lợi thế cho cả người bị buộc tội và Nhà nước. Với những ưu điểm vượt trội, hơn 90% vụ án hình sự tại Hoa Kỳ được áp dụng thỏa thuận nhận tội để giải quyết.

Tóm tắt: Thỏa thuận nhận tội là một cơ chế có lịch sử tồn tại lâu dài tại Hoa Kỳ. Cơ chế này có những lợi thế cho cả người bị buộc tội và Nhà nước. Với những ưu điểm vượt trội, hơn 90% vụ án hình sự tại Hoa Kỳ được áp dụng thỏa thuận nhận tội để giải quyết. Tuy nhiên, dù được áp dụng phổ biến, cơ chế này cũng vấp phải những chỉ trích trong chính nội bộ tư pháp Hoa Kỳ.

Abstract: Plea agreement is a long existing historical institution in the USA. This institution provides advantages for a defendant and the prosecution as well. Plea agreement has been applied in more than 90% of criminal cases in the USA due to its advantages. In spite of common application, plea agreement, however, faces critics within the internal cirle of the Department of Justice of the USA.

Thỏa thuận nhận tội là thỏa thuận trong đó người bị buộc tội nhận tội để đổi lấy sự nhượng bộ đối với hình phạt hoặc cáo trạng từ phía công tố viên. Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép áp dụng biện pháp thỏa thuận nhận tội như một thủ tục hình sự chính thức và được sử dụng rộng rãi trong quá trình tố tụng hình sự. Luật hình sự Liên bang Hoa Kỳ không quy định thời gian truy tố và giữa các bang, thời gian truy tố cũng khác nhau. Tuy nhiên, thời gian xử lý vụ án hình sự có thể rất dài, chủ yếu là do các thủ tục lựa chọn bồi thẩm viên tốn thời gian, thậm chí có thể mất nhiều năm. Do đó, phần lớn các vụ án hình sự ở Hoa Kỳ thường được giải quyết bằng thỏa thuận nhận tội để giảm thiểu chi phí, giảm tải hệ thống tư pháp nhưng vẫn đáp ứng các yêu cầu công lý[1]. Tòa án tối cao Hoa Kỳ thừa nhận cơ chế này là một phần gắn liền trong luật hình sự và một thành phần thiết yếu trong việc thực thi công lý, cần được khuyến khích nếu được áp dụng một cách phù hợp[2].

1. Đặc điểm cơ bản của thỏa thuận nhận tội

Thỏa thuận nhận tội được coi như một loại hợp đồng trong tố tụng hình sự, trong đó, các quyền của người bị buộc tội được xem xét và đánh giá theo nguyên tắc của luật hợp đồng[3]. Hợp đồng này là thỏa thuận song phương giữa công tố viên và người bị buộc tội, trong đó, công tố viên sẽ tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự theo hướng có lợi cho người bị buộc tội để đổi lại lời nhận tội. Nếu người bị buộc tội vi phạm thỏa thuận - bao gồm không nhận tội hoặc nhận tội nhưng không đúng với thỏa thuận, công tố viên sẽ không bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ trong thỏa thuận. Mặt khác, nếu công tố viên không giữ đúng cam kết trong thỏa thuận, người bị buộc tội có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ thẩm phán. Người bị buộc tội có thể đề xuất thẩm phán cho phép họ rút khỏi thỏa thuận nhận tội, hoặc yêu cầu công tố viên tuân thủ đúng cam kết[4].

Xuất phát từ bản chất như một hợp đồng, thỏa thuận nhận tội chỉ có giá trị đối với các bên liên quan. Thẩm phán không bị ràng buộc để chấp nhận thỏa thuận nhận tội. Trong các vụ án hình sự, công tố viên và luật sư bào chữa có thể thảo luận với thẩm phán về lời nhận tội của người bị buộc tội và hình phạt có thể sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, thẩm phán vẫn có quyền ra quyết định cuối cùng và không bị ràng buộc bởi các khuyến nghị của công tố viên, dù những khuyến nghị này được công nhận là một phần của thỏa thuận nhận tội. Dưới tư cách là đại diện của cơ quan tư pháp, thẩm phán phải đưa ra phán quyết đối với tội phạm trên cơ sở thực tế của vụ án. Do đó, luật pháp cho phép thẩm phán từ chối kết quả của thỏa thuận nhận tội nếu thỏa thuận đi ngược lại nguyên tắc cốt lõi của Tòa án. Đây có thể là một đặc quyền và cũng là một nghĩa vụ đặc biệt đối với một thẩm phán khi đưa ra phán quyết về vụ án ngay cả khi người bị buộc tội đã nhận tội.

2. Điều kiện để công nhận sự hợp pháp của thỏa thuận nhận tội

2.1. Người bị buộc tội hiểu rõ nội dung của thỏa thuận

Hệ thống tư pháp Hoa Kỳ cho rằng để đảm bảo sự công bằng của hệ thống tư pháp, thì bên buộc tội và bên gỡ tội phải được trang bị những nguồn lực ngang nhau, thẩm phán đóng vai trò là bên thứ ba trung gian có tiếng nói cuối cùng. Đối với trường hợp thỏa thuận nhận tội, người bị buộc tội cần có thông tin đầy đủ và chính xác về vụ án như phía công tố viên[5]. Do đó, trước khi chấp nhận thỏa thuận nhận tội, thẩm phán có nghĩa vụ đảm bảo người bị buộc tội hiểu được các nội dung theo quy định của pháp luật[6], trong đó được cung cấp thông tin chính xác để hiểu bản chất của các cáo buộc chống lại mình và hậu quả của việc tham gia vào thỏa thuận nhận tội. Nếu điều kiện này không được đảm bảo thì thỏa thuận nhận tội không thể được coi là tự nguyện, người bị buộc tội được coi là đã bị vi phạm quyền đối với tố tụng hợp pháp. Việc cung cấp thông tin về bản chất của tội danh trong cáo trạng có thể hiểu là người bị buộc tội hiểu rõ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội danh đó. Trong vụ Henderson v. Morgan (1976), Tòa án Liên bang phán quyết rằng người bị buộc tội không được giải thích đầy đủ về hành vi phạm tội mà anh ta đã nhận tội, do vậy, lời nhận tội của người bị buộc tội là không tự nguyện và bản án kết tội được đưa ra trong trường hợp này bị coi là đã vi phạm trình tự, thủ tục. Như vậy, yêu cầu đầu tiên, phổ biến nhất của quá trình tố tụng khi người bị buộc tội nhận tội là người này phải hiểu rõ bản chất của hành vi phạm tội mà mình thú nhận.

Về hệ quả của việc tham gia thỏa thuận nhận tội, thẩm phán cần đảm bảo người bị buộc tội hiểu được việc từ bỏ quyền được xét xử, quyền đối chất và kiểm tra chéo các nhân chứng bất lợi, quyền không tự buộc tội chính mình, quyền đưa ra lời khai và trình bày bằng chứng, hoặc trong nhiều trường hợp, quyền kháng cáo bản án và các hoạt động tư pháp áp dụng đối với mình và bản án tối đa có thể áp dụng trong vụ án của mình. Trong vụ Pilkington v. United States (1963), thẩm phán nói với người bị buộc tội rằng mức án tối đa có thể áp dụng cho anh ta là năm năm, với thông tin đó, người bị buộc tội đồng ý chấp nhận thỏa thuận nhận tội. Tuy nhiên sau đó, hình phạt áp dụng cho anh ta là sáu năm tù. Người bị buộc tội đã kháng cáo lên Tòa án phúc thẩm. Tòa án phúc thẩm phán quyết rằng thỏa thuận nhận tội của người bị buộc tội là vô hiệu vì người bị buộc tội đã tham gia thỏa thuận nhận tội dựa trên giả định sai lầm từ thông tin không chính xác mà người bị buộc tội được cung cấp.

2.2. Người bị buộc tội tự nguyện tham gia thỏa thuận nhận tội

Để chấp nhận một thỏa thuận nhận tội, Tòa án phải xác định người bị buộc tội sau khi có được thông tin đầy đủ theo quy định, mong muốn và sẵn sàng tham gia thỏa thuận mà không bị bất kỳ sự ép buộc về tinh thần hoặc thể chất nào từ bất kỳ ai, bao gồm cả công tố viên hoặc luật sư bào chữa. So với yêu cầu thứ nhất về mặt nhận thức của người bị buộc tội đối với nội dung thỏa thuận, yêu cầu về sự tự nguyện dường như mơ hồ và khó xác định hơn cho các thẩm phán. Vì công tố viên có thẩm quyền truy tố rộng, có thể quyết định truy tố hoặc không truy tố, điều này có thể gây ra sự mất cân bằng giữa hai bên trong thỏa thuận nhận tội, bên bào chữa dường như ở vị thế yếu hơn, có thể bị ảnh hưởng bởi ý kiến hoặc khuyến nghị của công tố viên. Việc xu hướng người bị buộc tội đồng ý tham gia thỏa thuận nhận tội để tránh hình phạt nặng hơn hoặc vì sợ rằng công tố viên sẽ buộc tội anh ta với cáo trạng khác nặng hơn, có thể không bị coi là trái pháp luật để khiến cho thỏa thuận bị vô hiệu, bởi công tố viên có quyền làm điều đó, bản chất của thỏa thuận nhận tội là sự trao đổi giữa người bị buộc tội và công tố viên. Mục đích của người bị buộc tội khi tham gia thỏa thuận nhận tội là để hưởng một bản án khoan hồng và/hoặc tránh (các) tội danh bổ sung. Tuy nhiên, trong vụ Bordenkircher v. Hayes (1978), nhận định của Tòa án đã cho thấy dù phía công tố viên có lợi thế từ thẩm quyền truy tố, nhưng nếu bản cáo trạng của công tố viên được tạo ra không dựa trên cơ sở thực tế mà với mục đích tạo áp lực cho người bị buộc tội chấp nhận thỏa thuận nhận tội, thì hành vi này là vi phạm luật pháp. Do đó, để đảm bảo sự công bằng của thỏa thuận nhận tội, công tố viên cần quyết định tất cả các cáo trạng trước khi thương lượng thỏa thuận nhận tội và thông báo các cáo trạng này ngay từ đầu thay vì vào cuối phiên thương lượng thỏa thuận.

2.3. Thỏa thuận nhận tội dựa trên cơ sở thực tế

Đối với yêu cầu cơ sở thực tế của thỏa thuận nhận tội, thẩm phán cần kiểm tra tính chính xác của thỏa thuận, liệu lời nhận tội của người bị buộc tội có phù hợp với những tình tiết của vụ án hay không. So với yếu tố về sự nhận thức và sự tự nguyện của người bị buộc tội, việc xác định dựa trên các tiêu chuẩn tố tụng cụ thể mà thẩm phán cần tiến hành như trực tiếp tham vấn với người bị buộc tội[7], thì không có tiêu chuẩn tố tụng cụ thể nào cho việc xác định yếu tố về cơ sở thực tế. Trong bình luận về Quy tắc 11, Ủy ban tư vấn đã nêu ra một số phương pháp mà thẩm phán có thể áp dụng để kiểm tra cơ sở thực tế của thỏa thuận nhận tội, đó là thẩm phán có thể trực tiếp hỏi người bị buộc tội và công tố viên hoặc nghiên cứu các báo cáo được trình lên.

3. Những tranh luận xung quanh thỏa thuận nhận tội

3.1. Tính hợp hiến của thỏa thuận nhận tội

Hiến pháp Hoa Kỳ thừa nhận quyền của người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự bao gồm quyền được xét xử tại phiên tòa độc lập và công khai, quyền giữ im lặng và quyền chống lại sự tự buộc tội chính mình. Với các quyền này, người bị buộc tội có thể giành cơ hội được tha bổng tại Tòa. Tuy nhiên, họ cũng phải đối mặt với nguy cơ bị kết án với hình phạt nghiêm khắc. Việc tham gia vào thỏa thuận nhận tội có nghĩa là người bị buộc tội phải từ bỏ các quyền trên. Đây là trung tâm của cuộc tranh luận về tính hợp hiến của thỏa thuận nhận tội. Tuy nhiên, thực tế tại Hoa Kỳ cho thấy rằng thỏa thuận nhận tội không yêu cầu người bị buộc tội từ bỏ ba quyền được bảo vệ bởi Tu chính án Hiến pháp thứ năm và thứ sáu, bao gồm quyền được xét xử bởi một phiên tòa độc lập và công khai, quyền chống lại sự tự buộc tội chính mình và quyền được đối chất với các nhân chứng. Trên thực tế, thực tiễn xét xử của Hoa Kỳ cho thấy Tòa án đã chấp nhận tính hợp hiến của thỏa thuận nhận tội miễn là lời nhận tội do người bị buộc tội đưa ra một cách lý trí và tự nguyện[8]. Với thỏa thuận nhận tội, người bị buộc tội từ bỏ quyền xét xử của mình và nhận tội để nhận được sự đảm bảo gần như chắc chắn của bản án khoan hồng, do đó, một số ý kiến coi thoả thuận này như là phần thưởng cho việc từ bỏ quyền[9], cũng có ý kiến coi đây như một hình thức hợp đồng[10]. Dù là trường hợp nào đi nữa, có thể khá chắc chắn rằng nếu không có sự đảm bảo về giảm hình phạt hay cáo trạng, người bị buộc tội sẽ không nhận tội và từ bỏ các quyền được bảo vệ của họ, mà sẽ tìm cơ hội để được chứng minh vô tội tại phiên tòa. Tuy nhiên, khi tham gia thỏa thuận nhận tội, người bị buộc tội vẫn có thể bảo lưu một số quyền, bao gồm quyền kháng cáo nếu luật sư bào chữa không hỗ trợ một cách hiệu quả, hoặc trong trường hợp công tố viên thực hiện hành vi sai trái, hoặc kết quả tuyên án dựa trên yếu tố chủng tộc hoặc bản án vượt quá khung hình phạt được áp dụng cho tội mà người bị buộc tội đã bị truy tố[11].

3.2. Tính chính xác của thỏa thuận nhận tội

Khả năng kết án người vô tội là một trong những lý do chính để phản đối việc sử dụng thỏa thuận nhận tội. Theo Innocent Project, 15% trong tổng số người bị buộc tội đưa ra lời nhận tội là vô tội. Lý do là vì những người bị buộc tội vô tội này nghĩ rằng rất khó để được chứng minh vô tội tại phiên tòa, họ thậm chí có thể phải đối mặt với các hình phạt nghiêm khắc hơn nếu họ bị đưa ra tòa. Riêng đối với người bị buộc tội đã bị tạm giam trước khi xét xử, khả năng nhận tội đối với các tội mà họ không thực hiện cao hơn vì lý do căng thẳng tinh thần vì bị tước đoạt tự do cũng như bị tách khỏi người thân[12]. Trong nhiều trường hợp, bản án của Tòa án đối với những vụ án có thỏa thuận nhận tội có thể không phản ánh các tình tiết của vụ án, hay đáp ứng với các yêu cầu trừng trị tội phạm, hoặc mối quan tâm của xã hội, mà thay vào đó phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thương lượng lợi ích giữa bên truy tố và bên bào chữa. Điều này đã làm suy yếu niềm tin của công chúng vào hệ thống tư pháp[13]. Sự khác biệt cơ bản giữa một phiên tòa đầy đủ và thỏa thuận nhận tội là nếu như một phiên tòa đầy đủ dựa trên đánh giá bằng chứng khách quan để đưa ra phán quyết về việc có tội hay vô tội của người bị buộc tội và được quyết định bởi một bên thứ ba trung lập (ít nhất là một thẩm phán), thì trong thỏa thuận nhận tội, số phận pháp lý của người bị buộc tội phụ thuộc vào kết quả thương lượng của luật sư bào chữa và công tố viên. Chính vì thương lượng không dựa trên các nguyên tắc suy đoán vô tội và bằng chứng, các nhà phê bình cho rằng phải thận trọng khi áp dụng cơ chế này[14].

3.3. Tính công bằng của thỏa thuận nhận tội

Việc áp dụng biện pháp thương lượng cũng làm tăng mối lo ngại về sự bình đẳng về việc đưa ra hình phạt giữa các vụ sử dụng thỏa thuận nhận tội và những vụ được đưa ra xét xử. Nhưng có quan điểm cho rằng miễn hình phạt được áp dụng tại phiên tòa không quá khắt khe, thì sự chênh lệch có thể chấp nhận được[15]. Theo Thẩm phán Bazelon trong vụ Scott v. United States (1969), sự chênh lệch về bản án giữa hai trường hợp không phải để ngăn cản những người bị buộc tội thực hiện các quyền được xét xử của mình mà là để ngăn chặn những người có ý định đánh cược số phận của mình tại phiên tòa[16].

3.4. Các vấn đề khác

Thành công của thỏa thuận nhận tội có thể làm giảm số lượng các vụ án phải được xử lý thông qua thủ tục tố tụng của Tòa án. Nó cũng làm tăng tỷ lệ kết án, qua đó tác động tiêu cực bởi công dân sẽ bất cẩn hơn trong hành vi của mình vì nghĩ rằng nếu bị bắt và bị truy tố, hành vi của mình sẽ được xử lý nhẹ nhàng hơn chỉ cần nhận tội[17]. Đồng thời, lời nhận tội của người bị buộc tội theo thỏa thuận nhận tội được coi là không mang tính chất hối cải mà chỉ là sự thừa nhận “đạo đức giả”[18] nhằm thoát khỏi quy trình tố tụng nhanh chóng và hình ảnh của hệ thống tư pháp hình sự sẽ bị bóp méo trong mắt chính người bị buộc tội[19]. Một thiếu sót khác của cơ chế thỏa thuận nhận tội là nó có mức độ minh bạch rất thấp. Các cuộc thương lượng giữa các công tố viên và luật sư bào chữa không được thực hiện tại các Tòa án công khai, do một bên trung lập chủ trì và công chúng không có cơ hội giám sát. Thay vào đó, các cuộc thương lượng này có thể diễn ra ở bất kỳ nơi nào và dưới hình thức nào tùy thuộc vào ý chí của hai bên[20]. Sự thiếu vắng một phiên tòa thường làm giảm tính công khai của vụ án và do áp lực, người bị buộc tội có thể muốn tránh lãng phí thời gian bằng cách từ bỏ các quyền được Hiến pháp công nhận của mình. Đồng thời, quyền của công chúng đối với việc chứng kiến công lý được thực thi cũng bị hạn chế[21].

Thỏa thuận nhận tội là cơ chế không thể thiếu trong hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ với tư cách là công cụ giúp đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án, giải phóng nguồn lực về tài chính, thời gian và nhân lực cũng như đem lại những lợi ích cho phía người bị buộc tội. Chính vì thế, mặc dù vẫn còn những ý kiến tranh luận xung quanh tính hợp hiến và hợp lý, cơ chế này vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay và chưa có dấu hiệu sẽ suy giảm trong tương lai. Thực tế, với những ưu điểm vượt trội, thỏa thuận nhận tội đã và đang có xu hướng lan rộng ra các quốc gia khác, kể cả với các quốc gia có hệ thống tố tụng thẩm vấn hoặc hệ thống tố tụng hỗn hợp với cơ chế truy tố bắt buộc như Nga, Đức và Ý. Do vậy, Việt Nam cũng nên cân nhắc, nghiên cứu về mô hình thỏa thuận nhận tội của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, việc lựa chọn áp dụng thỏa thuận nhận tội ở mức độ nào phụ thuộc vào đặc điểm văn hóa pháp lý và nhu cầu thực tiễn trong nước, việc áp dụng bất kỳ một cơ chế nào từ hệ thống pháp luật nước ngoài cần có thời gian thử nghiệm tính phù hợp và hiệu quả đối với hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.

ThS. Nguyễn Hải Yến

Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp



[1]. Đại học Kiểm sát Hà Nội, Mô hình tố tụng hình sự hợp chủng quốc Hoa Kỳ, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/152, truy cập ngày 08/12/2018.

[2].Vụ Brady v. United States, 397 U.S. 742 (1970).

[3]. Peter Westen and David Westin, A Constitutional Law of Remedies for Broken Plea Bargains, California LawReview 66, no. 3 (May 1978): 471. tr. 539.

[4]. Vụ People v. Kaanehe, 19 Cal.3d 1, 11-12 (1977).

[5]. Buckle and Buckle, tlđd. tr. 15-16.

[6]. Quy tắc 11.b.1 Quy tắc Liên bang về tố tụng hình sự.

[7]. Quy tắc 11.b.1-2 Quy tắc Liên bang về tố tụng hình sự.

[8]. Vụ Boykin v. Alabama, 395 U.S 238 và Vụ McCarthy v. United States, 394 U.S. 459 (1969).

[9]. Richard L. Lippke, To Waive or Not to Waive: The Right to Trial and Plea Bargaining, Criminal Law and Philosophy 2, no. 2 (2008), tr. 181 - 99.

[10]. Robert E. Scott and William J. Stuntz, Plea Bargaining as Contract,The Yale Law Journal101, no. 8 (1992), tr. 1909 - 68.

[11]. Vụ United States v. Marin, 961 F.2d 493, 496 (1992).

[12]. Jeffrey D. Stein, How to Make an Innocent Client Plead Guilty, https://www.washingtonpost.com/opinions/ why-innocent-people-plead-guilty/2018/01/12/e05d262c-b805-11e7-a908-a3470754bbb9_story.html, truy cập ngày 04/3/2019.

[13]. Stephen J. Schulhofer, Plea Bargaining as Disaster, The Yale Law Journal101, no. 8 (1992), tr. 1979 - 2009.

[14]. Gregory M. Gilchrist, Plea Bargains, Convictions and Legitimacy, https://papers.ssrn.com/ abstract=1666856, truy cập ngày 05/3/2019.

[15]. Wayne LaFave et al., Criminal Procedure, Nxb. West Academic, năm 2016. tr. 1198.

[16]. Vincent E. Scott v. United States 419 F.2d 264 (1969).

[17]. William Walker, Alcohol Highway-Traffic Safety Workshop for the Judiciary, Nxb. U.S. Government Printing Office, năm 1974. tr. 72.

[18]. Robert A. KAGAN and Robert A. Kagan, Adversarial Legalism: The American Way of Law, Nxb. Harvard University Press, năm 2009. tr. p84.

[19]. Jacqueline E. Ross and Stephen C. Thaman, Comparative Criminal Procedure, Nxb. Edward Elgar Publishing, năm 2016. tr. 1200.

[20]. Bureau of International Information Programs and United States Department of State, Outline of the U.S Legal System, https://usa.usembassy.de/etexts/gov/outlinelegalsystem.pdf, truy cập ngày 11/3/2019.

[21]. Albert Alschuler, Implementing the Criminal Defendant’s Right to Trial: Alternatives to the Plea Bargaining System, University of Chicago Law Review: No. 50.3, tr. 933.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm