Thứ sáu 13/06/2025 08:16
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng

Trong những năm qua, tình hình tội phạm tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội với tính chất, mức độ nghiêm trọng, liên quan đến nhiều địa phương, nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực kinh tế trọng điểm và một số cơ quan hành chính sự nghiệp.

Các lĩnh vực chủ yếu xảy ra tội phạm tham nhũng là: Tài chính, ngân hàng, quản lý tài sản công, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý sử dụng đất đai, giải quyết các chính sách xã hội... Quy mô các vụ án tham nhũng bị phát hiện được dư luận quan tâm nhìn chung là lớn, thể hiện ở số đối tượng liên quan, lượng tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, nhiều vụ án tham nhũng gây thiệt hại cho Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Không chỉ gây thiệt hại về tài sản, tội phạm về tham nhũng còn làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, làm ảnh hưởng đến đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, tác động đến an ninh nội bộ của nước ta.

Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện là yếu tố ảnh hưởng và tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tham nhũng. Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Công an nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015… đã được thông qua và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Hệ thống các quy định trong các văn bản pháp luật nói trên tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội tham nhũng.

Đảng, Nhà nước, Bộ Công an, chính quyền các cấp đã triển khai nhiều biện pháp nhằm củng cố, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm tham nhũng. Đây là nhân tố, là điều kiện quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng.

Công tác khởi tố, điều tra vụ án tham nhũng đã đạt nhiều kết quả, góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước. Đã có nhiều vụ án tham nhũng lớn bị phát hiện, khởi tố điều tra, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, góp phần làm giảm tội phạm tham nhũng[1]. Tuy nhiên, công tác khởi tố, điều tra tội phạm tham nhũng chưa tương xứng với tình hình. Số vụ tội phạm tham nhũng được khởi tố còn ít, tài sản tham nhũng thu hồi được không đáng kể. Việc giải quyết còn nhiều khó khăn, vướng mắc và kéo dài gây hoài nghi trong nhân dân về các cơ quan bảo vệ pháp luật. Những khó khăn, vướng mắc trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, việc chứng minh căn cứ khởi tố

Căn cứ vào Điều 143, Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, cơ quan có thẩm quyền khởi tố áp dụng các biện pháp để chứng minh căn cứ khởi tố vụ án tham nhũng là “có dấu hiệu tội phạm tham nhũng” và căn cứ khởi tố bị can phạm tội tham nhũng là “một người đã thực hiện hành vi phạm tội tham nhũng” để tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (khoản 2 Điều 1), “vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng” (khoản 5 Điều 2). Trên thực tế, việc xác định một người có vụ lợi về vật chất thì có cơ sở, nhưng xác định vụ lợi về tinh thần thì rất khó, không có định tính, định lượng cụ thể. Các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng khó khăn, thậm chí không thể chứng minh được dấu hiệu tội phạm tham nhũng trong trường hợp này, chính vì vậy, không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp các đối tượng có vụ lợi về tinh thần.

Việc giám định để xác định căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng còn nhiều bất cập. Đây là công việc khó khăn, nằm ngoài sự cố gắng, nỗ lực của cơ quan điều tra và điều tra viên, đồng thời, cũng là nguyên nhân chính dẫn đến khởi tố nói riêng và quá trình giải quyết các vụ án tham nhũng nói chung bị kéo dài. Bởi lẽ, việc xác định mức độ thiệt hại về tài sản là công việc đầu tiên phải chứng minh được trong một vụ án tham nhũng. Nếu không xác định được thiệt hại về tài sản thì coi như không có tội phạm xảy ra. Để xác định được thiệt hại về tài sản, cơ quan điều tra bắt buộc phải tiến hành công tác giám định tài chính kế toán, giám định kỹ thuật, giám định chất lượng công trình. Đây là nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh dấu hiệu tội phạm và người có hành vi phạm tội tham nhũng. Tuy nhiên, thực tiễn khởi tố còn có tình trạng các cơ quan được trưng cầu giám định thường bất hợp tác, từ chối, đùn đẩy trách nhiệm. Đối với các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, các cơ quan giám định tài chính kế toán thường yêu cầu phải có giám định chất lượng công trình trước rồi mới có cơ sở kết luận về tài chính kế toán, kể cả công trình đã qua kiểm toán. Trong khi đó, các công trình xây dựng cơ bản thi công trong nhiều năm và không biết khi nào mới quyết toán được. Vì vậy, công tác giám định không thực hiện được vì Viện kiểm sát, Tòa án đòi hỏi phải quyết toán công trình thì kết luận giám định mới có giá trị pháp lý. Nếu chưa quyết toán thì mặc dù có việc lập chứng từ giả mạo, tiền đã xuất ra khỏi quỹ, bị chiếm đoạt nhưng các Tòa án, Viện kiểm sát vẫn cho rằng đó là khoản tiền tạm ứng, chưa quyết toán thì chưa cấu thành tội phạm tham nhũng. Đây chính là nguyên nhân mà có rất ít các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản được khởi tố để điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian vừa qua.

Thứ hai, về cơ sở khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng

Việc tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng dựa trên các cơ sở như: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú[2].

Việc tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng trong thời gian qua chủ yếu do cơ quan công an trực tiếp phát hiện từ công tác nắm tình hình, xác minh của cơ quan điều tra, từ tố giác của cá nhân, từ kiến nghị khởi tố tham nhũng. Cơ quan giám sát, cơ quan quản lý cấp trên, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước đều không tự mình phát hiện được vụ tham nhũng lớn nào chuyển cơ quan điều tra. Chính vì điều này đã làm hạn chế việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, chưa phát huy sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng.

Thứ ba, hệ thống pháp luật liên quan đến khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng

Hệ thống các quy định pháp luật hình sự về xử lý tội phạm tham nhũng còn thiếu và chưa đồng bộ, không thống nhất, nhất là các hướng dẫn của các cơ quan chức năng, từ đó dẫn đến cách hiểu và vận dụng khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng.

Bộ luật Hình sự năm 2015, Chương XXIII, Mục 1 - Các tội phạm về tham nhũng quy định có 7 hành vi phạm tội, nhưng tại Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) lại quy định 12 hành vi tham nhũng, trong khi đó chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, dẫn đến tình trạng các địa phương vận dụng không thống nhất, gây khó khăn cho việc xác định đối tượng đấu tranh và khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng của lực lượng công an.

Việc Ngân hàng Nhà nước quy định: Chỉ khi có quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, thì mới cung cấp tài liệu cho cơ quan điều tra[3], các tổ chức tài chính, tín dụng dựa vào quy định này để không cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan điều tra, dẫn đến việc xác minh, thu thập tài liệu về tội phạm tham nhũng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ở giai đoạn tiền khởi tố rất khó khăn.

Khoản 4 Điều 38 Luật Báo chí năm 2016 quy định, nhà báo và cơ quan báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Quy định này gây khó khăn cho công tác phát hiện tội phạm tham nhũng cũng như việc thu thập tài liệu phục vụ cho khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước còn hạn chế. Đây là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn, bất cập trong việc khởi tố các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Công tác khởi tố, điều tra chủ yếu dựa trên quan hệ có đi có lại giữa các cơ quan tư pháp các nước. Việc ủy thác điều tra và tiếp nhận kết quả ủy thác điều tra phải phụ thuộc vào nước ngoài nên công tác khởi tố, điều tra bị kéo dài.

Thứ tư, về chủ thể có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng

Theo quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các tội phạm tham nhũng là Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng (C48) và Cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC46). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lực lượng này hiện còn bộc lộ một số bất cập sau:

- Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng và lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ còn chồng chéo về địa bàn, lĩnh vực, hệ loại đối tượng trong công tác điều tra. Mặt khác, các đội cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng trực thuộc PC46 nên việc thực hiện công tác nghiệp vụ cơ bản của đội được lãnh đạo Phòng PC46 giao cho các đội trinh sát địa bàn thực hiện, đội cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng chỉ làm công tác điều tra nên nguồn phát hiện án về tham nhũng từ công tác nghiệp vụ cơ bản còn hạn chế.

- Trình độ, năng lực của điều tra viên trong công tác điều tra án tham nhũng còn hạn chế. Đây là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động điều tra tội phạm tham nhũng, bởi vì đối tượng phạm tội tham nhũng thường là những người có trình độ hiểu biết sâu rộng, là những người có chức vụ, quyền hạn, phương thức, thủ đoạn phạm tội rất tinh vi. Ngoài ra, khi tiến hành khởi tố đối với bị can là Đảng viên, cơ quan công an gặp khó khăn vì quy định không được điều tra bí mật đối với Đảng viên trước khi khởi tố[4]. Đối tượng phạm tội tham nhũng là những người có chức vụ đều là Đảng viên.

Thứ năm, về quan hệ phối hợp trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng

Thực tiễn khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng cho thấy: Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các vụ án tham nhũng chưa thật sự chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất. Có nhiều vụ án, trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu khởi tố bị can hoặc phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, nhưng khi bị can được chuyển sang Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân lại đình chỉ điều tra. Hoặc có vụ án, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân đã thống nhất tội danh, tiến hành khởi tố vụ án, nhưng khi kết luận điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu điều tra bổ sung để thay đổi tội danh đã khởi tố. Điển hình: Vụ đưa, nhận hối lộ tại Công ty cổ phần V, thành phố ĐN (khởi tố năm 2009), Viện kiểm sát nhân dân đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để chuyển tội danh từ tội đưa, nhận hối lộ sang tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng góp phần bảo vệ chính trị nội bộ

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tội phạm tham nhũng nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được thông qua nhưng còn thiếu sót. Do vậy, cần kịp thời sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng; gây hậu quả nghiêm trọng khác; gây hậu quả rất nghiêm trọng khác; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác; cần có hướng dẫn cụ thể về việc xác định hành vi tham nhũng, chủ thể tham nhũng như: Thế nào là vụ lợi về tinh thần? Thế nào là động cơ cá nhân khác… để thống nhất thực hiện.

Để bảo đảm việc khởi tố, điều tra tội phạm về tham nhũng được khách quan, toàn diện và kịp thời, đề nghị hủy bỏ quy định tại điểm d khoản 2.2 Mục 2 Phần II Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 04/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước quy định “chỉ khi nào có quyết định khởi tố vụ án hình sự thì mới cung cấp tài liệu”. Bổ sung Điều 38 Luật Báo chí năm 2016 ngoài Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh trở lên có quyền yêu cầu cơ quan báo chí cung cấp nguồn tin đã đăng tải thì thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên cũng có quyền hạn này.

- Đối với cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng, cần tổ chức và xây dựng theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu, độc lập với tinh thần thượng tôn pháp luật.

- Đề nghị cho phép tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử) đối với tất cả các đối tượng tham nhũng kể cả Đảng viên. Cơ sở pháp lý để tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đối với tội phạm tham nhũng được quy định tại Điều 223, Điều 224 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động lập pháp và quá trình thực thi về khởi tố, điều tra đối với tội phạm tham nhũng thống nhất về ý chí và hành động, tác giả kiến nghị chỉnh sửa Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng theo hướng không quy định cấm tiến hành biện pháp bí mật đối với Đảng viên.

- Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm về tham nhũng nói riêng, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện cơ sở pháp lý quốc tế, pháp luật trong nước về phòng, chống tội phạm và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế - xã hội; đóng góp vào việc nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, chú trọng việc tăng cường ký kết, đàm phán các điều ước quốc tế song phương và đa phương phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế của Nhà nước ta trong phê chuẩn và thực hiện Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, đặc biệt là các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, hợp tác tịch thu, thu hồi tài sản do phạm tội mà có, tài sản có được do tham nhũng .

ThS. Lưu Thanh Hùng

Đại học An ninh nhân dân

Tài liệu tham khảo:

[1]. Năm 2015, cơ quan điều tra các cấp đã thụ lý điều tra 351 vụ án, 813 bị can phạm tội về tham nhũng, đã kết luận điều tra 198 vụ, 489 bị can; hiện đang điều tra 140 vụ, 299 bị can.

[2]. Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3]. Điểm d khoản 2.2 Mục 2 Phần II Thông tư số 02/2001/TT-NHNN ngày 04/4/2001 của Ngân hàng Nhà nước về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 70/2000/NĐ-CP ngày 21/11/2000 của Chính phủ về việc giữ bí mật, lưu trữ và cung cấp thông tin liên quan đến tiền gửi và tài sản gửi của khách hàng.

[4]. Khoản 1 Điều 5 Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm