Thứ năm 19/06/2025 11:16
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng và đề xuất hoàn thiện pháp luật về vấn đề rút khỏi, gia nhập hợp đồng hợp tác

Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm.

1. Rút khỏi hợp đồng hợp tác

Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Bộ luật Dân sự năm 2015 không thừa nhận tổ hợp tác là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự nên kết quả của hợp đồng hợp tác cũng không làm hình thành một chủ thể độc lập. Đây cũng chính là lý do khiến vị trí của hợp đồng hợp tác được thay đổi. Cụ thể, trong Bộ luật Dân sự năm 1995 và 2005 thì kết quả của hợp đồng hợp tác là hình thành chủ thể “tổ hợp tác” để tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự nên các quy định về hợp đồng hợp tác được kết cấu tại phần các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, sự giao kết hợp đồng hợp tác chỉ thuần túy là việc xác lập hợp đồng nên các quy định về hợp đồng này được kết cấu trong Chương XVI. “Một số hợp đồng thông dụng”.

Đối với các hợp đồng khác, số lượng chủ thể của hợp đồng tương đối ổn định mà hầu như không có sự thay đổi từ lúc giao kết, thực hiện và đến giai đoạn chấm dứt hợp đồng. Ngược lại, số lượng chủ thể hợp đồng hợp tác lại thường xuyên có sự thay đổi do sự gia nhập của chủ thể mới hoặc sự rút khỏi hợp đồng hợp tác của chủ thể cũ. Do đó, số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác có thể tăng lên hoặc giảm đi so với số lượng các chủ thể giao kết ban đầu. Nhưng số lượng chủ thể của hợp đồng hợp tác luôn được duy trì tối thiểu là hai chủ thể để bảo đảm sự tồn tại của hợp đồng hợp tác. Pháp luật ghi nhận cũng như cho phép việc gia nhập hoặc rút khỏi hợp đồng hợp tác xuất phát từ chính mục đích của hợp đồng này là sự hợp tác của các bên chủ thể trên cơ sở đóng góp vốn, góp công sức để cùng nhau thực hiện công việc nhất định thu lợi nhuận và phân chia lợi nhuận đó. Với mục đích này, việc các chủ thể khác mặc dù không tham gia giao kết hợp đồng nhưng hoàn toàn có thể đóng góp tài sản hoặc công sức để gia nhập hợp đồng. Ngược lại, với các chủ thể của hợp đồng hợp tác, khi họ không có nhu cầu hợp tác với các chủ thể còn lại của hợp đồng thì họ có thể rút khỏi hợp đồng hợp tác và phần tài sản họ đã đóng góp được giải quyết theo quy định của pháp luật. Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận cho các chủ thể được rút khỏi hoặc gia nhập hợp đồng hợp tác nhưng những sự thay đổi này được tiến hành theo các quy định của pháp luật để tránh sự tùy tiện của các chủ thể; qua đó, bảo đảm sự ổn định của hợp đồng hợp tác trong một giới hạn nhất định.

Rút khỏi hợp đồng hợp tác là việc chủ thể không tiếp tục tham gia hợp đồng hợp tác với tư cách chủ thể của hợp đồng. Sau khi rút khỏi hợp đồng hợp tác, chủ thể đã rút khỏi hợp đồng không còn là thành viên của hợp đồng, mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ của họ trong hợp đồng hợp tác đều được chấm dứt.

Điều 510 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thành viên có quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác trong hai trường hợp sau đây:

Thứ nhất, theo điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác

Khi các chủ thể xác lập hợp đồng hợp tác thì họ có thể thỏa thuận luôn các điều kiện để một thành viên được quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác. Khi thực hiện hợp đồng hợp tác xảy ra các điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thì thành viên hợp tác có quyền xin rút khỏi hợp đồng hợp tác. Các điều kiện mà các bên thường thỏa thuận để thành viên có thể rút khỏi hợp đồng hợp tác như:

- Vì lý do sức khỏe không thể tiếp tục thực hiện các công việc trong hợp đồng hợp tác. Điều kiện này thường được áp dụng đối với các thành viên có nghĩa vụ đóng góp công sức để thực hiện hợp đồng hợp tác;

- Vì lý do kết quả hợp tác thua lỗ;

- Vì lý do một thành viên hợp tác chuyển nơi cư trú. Điều kiện này thường được đặt ra khi việc tiến hành công việc hợp tác được xác định theo địa điểm nhất định;

- Các bên cũng có thể thỏa thuận về tỷ lệ đồng ý về việc cho rút khỏi hợp đồng hợp tác đối với thành viên có nguyện vọng xin rút...

Thứ hai, có lý do chính đáng và được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác.

Trong trường hợp này, để rút khỏi hợp đồng hợp tác thì phải có đầy đủ hai điều kiện sau đây: (i) Bên xin rút có lý do chính đáng; (ii) Được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác. Số lượng hơn một nửa thành viên hợp tác phụ thuộc vào số lượng thành viên hợp tác trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ: Nếu số lượng thành viên hợp tác là 03 người thì khi một người muốn xin rút phải được sự đồng ý của 02 người; nếu số lượng thành viên hợp tác là 04 người thì khi một người muốn xin rút phải được sự đồng ý của 03 người; nếu số lượng thành viên hợp tác là 05 người thì khi một người muốn xin rút phải được sự đồng ý của 03 người...

Đây là hai điều kiện đồng thời và nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì thành viên xin rút sẽ không được phép rút khỏi hợp đồng hợp tác. Theo đánh giá của tác giả, quy định này còn tồn tại một số hạn chế sau đây:

Một, điều luật chỉ quy định chung chung “có lý do chính đáng” mà không có bất cứ giải thích như thế nào là có lý do chính đáng gây ra khó khăn và thiếu thống nhất trong việc áp dụng điều kiện này. Hơn thế nữa, để thừa nhận lý do thành viên xin rút đưa ra là chính đáng hay không phụ thuộc phần lớn vào sự đánh giá chủ quan của các thành viên còn lại của hợp đồng hợp tác. Vì vậy, theo tác giả cần phải bổ sung quy định giải thích như thế nào là “có lý do chính đáng”, theo đó, đây là những lý do liên quan đến sức khỏe, công việc, nơi ở... của thành viên hợp tác khiến họ không thể tiếp tục thực hiện được việc hợp tác với các thành viên hợp tác khác.

Hai, điều kiện được rút khỏi hợp đồng hợp tác là “được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác” không áp dụng được khi số lượng thành viên hợp đồng hợp tác chỉ có 02 chủ thể. Do đó, với trường hợp số lượng thành viên hợp tác chỉ có hai thành viên mà một chủ thể xin rút và được sự đồng ý của thành viên kia thì đương nhiên họ có quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác và hậu quả tất yếu là chấm dứt hợp đồng hợp tác. Bộ luật Dân sự năm 2015 cần bổ sung thêm cho riêng trường hợp này.

Ba, điểm hạn chế lớn nhất của quy định này là đặt ra yêu cầu phải đáp ứng đồng thời cả hai điều kiện: Bên xin rút có lý do chính đáng và được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác. Trên thực tế sẽ tồn tại nhiều trường hợp một người có lý do chính đáng không thể tiếp tục tham gia hợp đồng hợp tác nhưng lại không được hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác đồng ý cho rút thì họ cũng không thể rút được. Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi cũng như cuộc sống của họ. Ví dụ: A đang tham gia hợp đồng hợp tác cùng với B và C, theo đó công việc hợp tác là A, B, C cùng đóng góp công sức để đóng gạch bán chung. Hợp đồng hợp tác kéo dài 05 năm. Khi thực hiện hợp đồng được 02 năm, A bị đột quỵ, tai biến nằm liệt giường. A đã xin rút khỏi hợp đồng hợp tác nhưng không được sự chấp thuận của B và C. Xét theo quy định của luật, trường hợp này A không được quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác. Điều này không phù hợp với thực tế tình trạng của A. Đặc biệt khi công việc hợp tác lại liên quan đến việc đóng góp công sức mà A lại không còn khả năng lao động. Do đó, theo ý kiến tác giả, quy định để rút khỏi hợp đồng hợp tác thì phải có đầy đủ hai điều kiện bên xin rút có lý do chính đáng và được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác là không phù hợp và cứng nhắc. Bởi vậy, chỉ cần có một trong hai điều kiện này thì thành viên của hợp đồng hợp tác có quyền rút khỏi hợp đồng.

Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thành viên chỉ được quyền rút khỏi hợp đồng hợp tác theo một trong hai căn cứ trên. Nếu thành viên tự ý rút khỏi hợp đồng hợp tác không theo đúng các căn cứ do Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thì việc rút khỏi hợp đồng của thành viên đó bị xác định là vi phạm hợp đồng và họ phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan.

Khi thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác, họ có quyền và nghĩa vụ như sau:

- Về quyền của thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác: Họ được yêu cầu nhận lại tài sản đã đóng góp, được chia phần tài sản trong khối tài sản chung. Quy định thành viên hợp tác được nhận lại tài sản đã đóng góp gây ra cách hiểu sai là thành viên được quyền nhận lại tài sản bằng với tài sản họ đã đóng góp. Điều này chỉ đúng khi việc hợp tác có lãi, tạo ra lợi nhuận. Trong nhiều trường hợp việc hợp tác thua lỗ thì thành viên đã rút khỏi hợp đồng hợp tác không thể yêu cầu nhận lại toàn bộ số tài sản mà họ đã đóng góp khi giao kết hoặc khi gia nhập hợp đồng hợp tác. Bên cạnh đó, quy định này cũng chưa quy định triệt để việc xác định giá trị tài sản nhận lại theo đúng thời điểm góp vào hay theo giá tài sản tại thời điểm rút khỏi hợp đồng hợp tác. Ví dụ: 04 người bạn cùng góp tiền và vàng để hợp tác làm ăn chung. Tại thời điểm góp tài sản, anh M góp 15 cây vàng và số vàng này đã được bán để thực hiện công việc làm ăn chung. 03 năm sau, M xin rút khỏi hợp đồng hợp tác, trường hợp này M được nhận lại theo số tiền theo đúng thời điểm bán vàng hay được nhận lại số tiền tính theo giá trị 15 cây vàng tại thời điểm rút khỏi hợp đồng hợp tác. Qua phân tích cũng như ví dụ minh họa đưa ra, tác giả cho rằng để tránh các tranh chấp phát sinh trên thực tế cũng như hạn chế việc giải quyết không thống nhất giữa các Tòa án, Bộ luật Dân sự năm 2015 nên quy định triệt để và chặt chẽ vấn đề này. Theo đó, giá trị tài sản mà thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác được nhận lại cần được xác định theo giá trị tại thời điểm họ rút khỏi hợp đồng hợp tác bởi lẽ giá trị của tài sản có sự thay đổi theo thời gian nên không thể tính theo thời điểm góp tài sản để trả lại cho thành viên rút khỏi hợp đồng, như vậy sẽ gây bất lợi cho thành viên đó. Hơn thế nữa, nhiều hợp đồng hợp tác có thời gian kéo dài lên tới vài chục năm thì việc xác định giá trị tài sản để hoàn trả cho người rút khỏi hợp đồng theo giá tại thời điểm đóng góp sẽ bất hợp lý. Ngoài ra, trường hợp việc phân chia tài sản bằng hiện vật làm ảnh hưởng đến hoạt động hợp tác thì tài sản được tính giá trị thành tiền để chia.

- Về nghĩa vụ của thành viên rút khỏi hợp đồng hợp tác: Họ phải thanh toán các nghĩa vụ theo thỏa thuận. Việc rút khỏi hợp đồng hợp tác không làm chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người này được xác lập, thực hiện trước thời điểm rút khỏi hợp đồng hợp tác.

2. Gia nhập hợp đồng hợp tác

Ngược lại với quá trình rút khỏi hợp đồng hợp tác là việc gia nhập hợp đồng. Nếu như rút khỏi hợp đồng hợp tác là căn cứ chấm dứt tư cách chủ thể hợp đồng của bên rút khỏi thì gia nhập hợp đồng hợp tác là căn cứ để xác lập tư cách chủ thể hợp đồng của chủ thể đã gia nhập. Điều 511 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về vấn đề gia nhập hợp đồng hợp tác như sau: “Trường hợp hợp đồng hợp tác không quy định khác thì một cá nhân, pháp nhân trở thành thành viên mới của hợp đồng nếu được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác”. Theo quy định này, việc gia nhập hợp đồng hợp tác dựa trên hai căn cứ sau đây:

Một là, việc gia nhập hợp đồng hợp tác được thực hiện theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng hợp tác. Các chủ thể ký kết hợp đồng hợp tác được đặt ra các điều kiện để một người được gia nhập vào hợp đồng cũng như quy định tỷ lệ thành viên đồng ý để một chủ thể có thể được gia nhập hợp đồng. Trong hợp đồng hợp tác có thể có điều khoản để xác định điều kiện gia nhập hợp đồng hợp tác như điều kiện về việc đóng góp tài sản, công sức; điều kiện về độ tuổi; điều kiện về nghề nghiệp; điều kiện về giới tính; điều kiện về nơi cư trú, công việc… của người gia nhập. Các điều kiện này được đặt ra theo tính chất công việc của hợp đồng hợp tác. Ví dụ như 03 người bạn cùng ký kết hợp đồng hợp tác để mở salon tóc. Họ cùng đóng góp tài sản và công sức để mở salon và trực tiếp thực hiện công việc. Trong hợp đồng hợp tác quy định điều kiện gia nhập như về độ tuổi dưới 35 tuổi; có tay nghề và chứng chỉ liên quan đến hoạt động làm tóc…

Hai là, trường hợp các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng hợp tác thì một cá nhân, pháp nhân trở thành thành viên mới của hợp đồng nếu được sự đồng ý của hơn một nửa tổng số thành viên hợp tác. Theo quan điểm của tác giả, quy định này không phù hợp bởi vì sự thỏa thuận hợp tác giữa các bên chính là hợp đồng mà theo nguyên tắc chung của hợp đồng, các nội dung của hợp đồng được thống nhất trên cơ sở của các bên chủ thể. Trong khi đó, việc một chủ thể xin gia nhập hợp đồng hợp tác có tác động lớn, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ các thành viên hợp tác. Do đó, quan điểm của tác giả cho rằng, nếu một chủ thể muốn xin gia nhập hợp đồng hợp tác mà trong hợp đồng hợp tác các thành viên của hợp đồng chưa dự liệu, ghi nhận vấn đề này thì cần phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên của hợp đồng hợp tác. Quy định này vừa thể hiện đúng bản chất thể hiện ý chí của các bên chủ thể trong hợp đồng và đồng thời bảo đảm quyền của tất cả các thành viên trong hợp đồng hợp tác.

Khi một chủ thể được gia nhập hợp đồng hợp tác theo một trong hai căn cứ trên, họ được công nhận là thành viên của hợp đồng và có các quyền cũng như nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hợp tác./.

TS. Lê Thị Giang
Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm