Thứ sáu 06/06/2025 23:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về các tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Bàn về các tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

1. Dẫn nhập

Trong phạm vi bài viết, tác giả phân tích một số vấn đề về định tội và quyết định hình phạt đối với các tội xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141,142,143,144,145,146,147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi, với mong muốn góp phần vào việc hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ công tác giải quyết, xét xử án hình sự tại các Tòa án.

2. Một số vấn đề về định tội danh

Thứ nhất, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP giải thích: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: Hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: Cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ...)”. Thực tiễn xét xử cho thấy hướng dẫn trên đã bao quát gần hết các hành vi biểu hiện ra bên ngoài liên quan đến tội phạm xâm hại tình dục nói chung, xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi nói riêng. Tuy nhiên, việc đối tượng dùng chất kích thích hoặc biện pháp kích dục khác khiến người dưới 16 tuổi không làm chủ bản thân, chủ động tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục lại không thuộc trường hợp hướng dẫn trên, trở thành vướng mắc trong việc xác định tội danh. Bởi lẽ, hoàn toàn không có cơ sở để cho rằng người phạm tội đã “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ” người dưới 16 tuổi khi mà người bị hại bị người phạm tội sử dụng hoặc hướng dẫn, ép buộc sử dụng chất kích dục, biện pháp kích dục, khiến bị hại chủ động tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục. Mặt khác, tình trạng sử dụng ma túy trong các hoạt động nhóm của học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên và phim, ảnh, thuốc, phương tiện, biện pháp kích dục trong đời sống hiện nay đa dạng, chưa được kiểm soát tốt, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các loại tội phạm xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi dưới hình thức làm cho người bị hại tự nguyện, chủ động tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục. Do vậy, vấn đề tác giả đặt ra là cấp thiết, cần được quan tâm, xem xét, hướng dẫn kịp thời.

Thứ hai, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP giải thích: “Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: Ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây: a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: Ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác”. Thực tiễn phát sinh các trường hợp sau:

Trường hợp 1: Một người dùng bộ phận khác trên cơ thể (miệng, lưỡi, tay, chân…) xâm nhập vào bộ phận sinh dục nam của người khác để thỏa mãn dục vọng của người đó. Ví dụ: A là nam thanh niên khống chế B và C (nam, dưới 16 tuổi), buộc B, C cởi quần và A tự dùng miệng xâm nhập vào bộ phận sinh dục của B và C khiến B và C xuất tinh. Rõ ràng hành vi này nguy hiểm và gây hậu quả nặng hơn so với việc A dùng ngón tay, chân, lưỡi xâm nhập vào hậu môn của B và C. Thế nhưng hành vi này chỉ được xử lý về Tội dâm ô theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP. Trong khi đó, đối tượng thực hiện hành vi tương tự vào hậu môn của bị hại sẽ bị xác định là “hành vi quan hệ tình dục khác” theo quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trường hợp 2: Người phạm tội là nam đủ 18 tuổi, ép buộc người bị hại là nam dưới 16 tuổi đưa bộ phận sinh dục bị hại vào hậu môn của người phạm tội để họ thỏa mãn dục vọng. Có quan điểm cho rằng hành vi này thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP, nhưng đa số các quan điểm khác thì cho rằng trường hợp này không thỏa mãn hướng dẫn tại các điểm a, b khoản 1 Điều 3 của Nghị quyết 06/2019, bởi đối tượng không đưa bộ phận sinh dục của mình vào hậu môn người khác mà ngược lại họ ép buộc người khác đưa bộ phận sinh dục vào hậu môn của mình.

Từ những vướng mắc trên, tác giả đề xuất bổ sung hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/HĐTP, có thể cân nhắc theo các hướng:

- Sửa đổi, bổ sung hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP về nội dung: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ, kích thích người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục…”.

- Sửa đổi, bổ sung hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP về nội dung: “Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: Ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây: a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác hoặc đưa bộ phận sinh dục nam của người khác xâm nhập vào miệng, hậu môn của mình; b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: Ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục, hậu môn của người khác”.

3. Một số vấn đề về quyết định hình phạt

3.1. Một số vấn đề về tình tiết định khung hình phạt

Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/HĐTP hướng dẫn một số tình tiết định khung liên quan đến các tội phạm xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi và các hướng dẫn này đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công tác xét xử loại tội phạm này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử phát sinh các vấn đề sau:

Thứ nhất, về tình tiết “đối với 02 người trở lên”: Thực tiễn xét xử chưa có nhận thức và quyết định thống nhất về việc xác định phạm vi số lượng người bị hại theo tình tiết này trong toàn bộ quá trình diễn biến của tội phạm. Bởi lẽ, tình huống thực tiễn cho thấy, có trường hợp trong cùng một khoảng thời gian, tại một địa điểm, bị cáo vừa xâm hại bị hại này xong thì liền tiếp xâm hại bị hại khác; có tình huống bị cáo xâm hại bị hại này xong, sau đó một thời gian ngắn thì tiếp tục xâm hại bị hại khác; cũng có tình huống trong cùng một khoảng thời gian, một địa điểm, bị cáo đồng thời thực hiện hành vi phạm tội xâm hại tình dục đối với nhiều người. Nghị quyết số 06/2019/HĐTP chưa hướng dẫn tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên”. Hiện nay, một số Tòa án vận dụng hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao về tình tiết “đối với 02 người trở lên” về các tội phạm khác (các tội phạm về ma túy…) để áp dụng tình tiết định khung hình phạt này, tuy nhiên cách làm này cần được hướng dẫn thống nhất.

Thứ hai, về tình tiết định khung “làm nạn nhân có thai”: Thực tiễn việc nạn nhân có thai xảy ra sau thời điểm phạm tội, nhưng có thể thai nhi không còn hoặc đã sinh con tại thời điểm phát hiện, xử lý hành vi phạm tội. Do vậy, việc cơ quan tố tụng chứng minh bị cáo phạm tội thuộc tình tiết định khung này khi mà thai nhi không còn hoặc bị hại đã sinh con gặp phải khó khăn và phát sinh cách hiểu không thống nhất.

Trường hợp bị hại khai đã có thai nhưng không giữ được nên tại thời điểm phát hiện, xử lý hành vi phạm tội không thu thập được chứng cứ khoa học (kết quả giám định ADN) để chứng minh, nên việc truy cứu trách nhiệm của người phạm tội chỉ dựa trên lời khai của các bên là không bảo đảm tính ổn định và tính an toàn của kết quả xét xử. Bởi lẽ, thông thường trong những vụ án này bị hại và bị cáo dễ thay đổi lời khai theo hướng “hòa giải”, có lợi cho bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án. Mặt khác, rất nhiều vụ án xảy ra do người phạm tội và bị hại đều thuộc người dân tộc thiểu số, nhận thức còn hạn chế, tập tục liên quan đến thai nhi chết còn lạc hậu, do vậy, việc thu thập chứng cứ chứng minh hết sức khó khăn.

Trường hợp bị hại đã sinh con thì cơ quan tiến hành tố tụng đang xử lý theo hướng là “làm cho nạn nhân có thai thì mới có điều kiện để sinh con”, nên đủ điều kiện để áp dụng tình tiết định khung này. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, cho rằng có thai là một việc, sinh con là một việc. Mặt khác, thực tiễn xét xử phát sinh trường hợp bị hại không hợp tác, ngăn cản cơ quan có thẩm quyền lấy mẫu AND của đứa trẻ đi giám định dẫn đến không có cơ sở khoa học để kết luận đứa trẻ là con của người phạm tội do hành vi phạm tội gây ra.

Thứ ba, về tình tiết định khung “gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc 61% trở lên”. Thực tiễn phát sinh các vướng mắc sau:

Trường hợp có 02 bị hại trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người đều dưới 31% nhưng tổng tổn thương cơ thể của tất cả các bị hại từ 31% đến 60% thì có áp dụng tình tiết định khung này không? Hay chỉ áp dụng 01 tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên”?.

Trường hợp có 02 bị hại trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người đều từ 31% đến 60%, nhưng tổng tổn thương cơ thể của tất cả các bị hại trên 61% thì có áp dụng tình tiết định khung này không?.

Từ những vướng mắc trên, tác giả đề xuất bổ sung hướng dẫn tại Nghị quyết số 06/2019/HĐTP. Có thể cân nhắc các theo hướng:

- Tình tiết định khung “đối với 02 người trở lên” được hiểu là: Trong một lần phạm tội, người phạm tội đã hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với từ 02 người trở lên hoặc sử dụng 02 người dưới 16 tuổi trở lên vào mục đích khiêu dâm.

- Tòa án áp dụng tình tiết định khung hình phạt “làm nạn nhân có thai” khi có chứng cứ khoa học (kết quả giám định AND) xác định mối quan hệ huyết thống giữa bị cáo và thai nhi hoặc con sinh ra từ hành vi phạm tội của bị cáo đối với bị hại. Trong trường hợp không có, không thu thập được chứng cứ khoa học (kết quả giám định AND) xác định về mối quan hệ huyết thống giữa bị cáo và thai nhi hoặc con sinh ra từ hành vi phạm tội của bị cáo đối với bị hại thì Tòa án không áp dụng tình tiết định khung này.

- Được xem là phạm tội theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 141; điểm c khoản 2 Điều 142; điểm e khoản 2 Điều 143; điểm c khoản 2 Điều 144; điểm đ khoản 2 các Điều 145, Điều 146; điểm e khoản 2 Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 2015 khi một lần phạm tội đối với 02 bị hại trở lên và tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi bị hại đều dưới 31% nhưng tổng tổn thương cơ thể của các bị hại từ 31% đến 60%. Được xem là phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 3 các Điều 141, Điều 143, Điều 145, Điều 146, Điều 147; điểm d khoản 3 Điều 142; điểm b khoản 3 Điều 144 Bộ luật Hình sự năm 2015 khi một lần phạm tội đối với 02 bị hại trở lên và tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi bị hại đều từ 31% đến 60% nhưng tổng tổn thương cơ thể của các bị hại từ 61% trở lên.

3.2. Một số vấn đề về quyết định loại, mức hình phạt

Thứ nhất, áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 141; khoản 4 Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2015 phát sinh vướng mắc trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có nhiều người bị hại, trong đó có bị hại thuộc độ tuổi đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, có bị hại thuộc độ tuổi từ 18 tuổi trở lên, tạo nên nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau của Tòa án khi quyết định hình phạt.

Ví dụ: Bị cáo A bị truy tố về tội hiếp dâm với tình tiết định khung là phạm tội đối với 02 người trở lên, trong đó có 01 bị hại 17 tuổi và 01 bị hại 19 tuổi. Trường hợp này, khi có đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 141; khoản 2 Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì phát sinh hai cách hiểu, cách làm khác nhau: (i) Cách 1 là quyết định hình phạt của bị cáo theo khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 141 (từ 02 năm tù đến 07 năm tù), khoản 1 Điều 143 (từ 01 năm tù đến 05 năm tù); (ii) Cách hai là quyết định hình phạt của bị cáo theo khung hình phạt được quy định tại khoản 4 Điều 141 (từ 05 tù năm đến 10 năm tù), khoản 4 Điều 143 (từ 02 năm tù đến 07 năm tù).

Thứ hai, trong một số trường hợp cụ thể, bị hại đã sinh con và sau đó bị cáo, gia đình bị cáo cung cấp tiền để bị hại sinh con, nuôi dưỡng con. Khi xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo thì tình tiết “chu cấp tiền để sinh con, nuôi dưỡng con” có được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 hay không? Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về nội dung này nên thực tiễn xét xử có nhiều cách áp dụng pháp luật khác nhau, một số địa phương chấp nhận tình tiết này theo điểm b khoản 1 Điều 51 và khi đủ điều kiện thì áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt của bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt bị truy tố, nhưng cũng có một số địa phương áp dụng tình tiết này thuộc khoản 2 Điều 51 và điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của bị cáo.

Từ những vướng mắc trên, theo tác giả cần xem xét, bổ sung Nghị quyết số 06/2019/HĐTP theo hướng sau:

- Khi xét xử bị cáo phạm tội tại các Điều 141, Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2015 và vụ án có nhiều bị hại, có bị hại từ đủ 18 tuổi trở lên, có bị hại từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Trong trường hợp đủ điều kiện để áp dụng các khoản 1, khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, Tòa án được quyết định hình phạt như trong trường hợp các bị hại là người đủ 18 tuổi; trường hợp các bị hại đều từ đủ 16 tuổi, đến dưới 18 tuổi thì Tòa án phải quyết định hình phạt theo mức hình phạt được quy định tại khoản 4 các Điều 141, Điều 143 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Bị cáo nộp tiền hoặc tác động gia đình nộp tiền phục vụ việc sinh con, nuôi con sau khi thực hiện hành vi phạm tội khiến bị hại sinh con thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

ThS. Nguyễn Văn Dũng

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm