Chủ nhật 08/06/2025 10:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử trong pháp luật tố tụng hình sự

Bài viết bàn về quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử, đồng thời, phân tích một số vấn đề vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực tiễn thu thập chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử; từ đó, đưa ra một số kiến nghị liên quan đến vấn đề này.

1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử

Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn chứng cứ như: Vật chứng; lời khai, lời trình bày; dữ liệu điện tử; kết luận giám định, định giá tài sản; biên bản hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; kết quả từ hoạt động ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế; đồ vật, tài liệu khác.

Trong các nguồn chứng cứ nêu trên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) lần đầu tiên ghi nhận dữ liệu điện tử là một trong những nguồn chứng cứ[1] nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn giải quyết vụ án hình sự trong thời đại công nghệ 4.0. Dữ liệu điện tử là những ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử[2]. Dữ liệu điện tử có thể xem là nguồn của chứng cứ thường tồn tại ở hai dạng: (i) Dữ liệu điện tử do máy tính tự động tạo ra như: “Cookies”, “URL”, E-mail logs, webserver logs, firewallserver logs, IP, thông tin truy cập, website, mã độc..., chứng minh về nguồn gốc truy cập, tấn công vào website, cơ sở dữ liệu, thư điện tử, tài khoản, dấu vết hoạt động phạm tội (tấn công DDOS, cài trojan, keylogger, sniffer nghe lén, lấy cắp hoặc phá hoại dữ liệu...). (ii) Dữ liệu điện tử do người sử dụng tạo ra và được lưu lại trong bộ nhớ điện tử như: Văn bản, bảng biểu, hình ảnh số, thư điện tử, các trang web, thông tin người sử dụng các dịch vụ, nội dung các cuộc trò truyện trên mạng, những phản ánh của khách hàng...

Dữ liệu điện tử được thu thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông, trên đường truyền hoặc từ các nguồn điện tử khác[3]. Giá trị chứng minh của chứng cứ là dữ liệu điện tử được căn cứ vào cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi dữ liệu điện tử; cách thức bảo đảm và duy trì được tính toàn vẹn của dữ liệu điện tử; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác. Khi thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử, cơ quan có thẩm quyền (có thể mời thêm người có chuyên môn tham gia)[4] tiến hành thu giữ các phương tiện điện tử, thiết bị ngoại vi kèm theo, dữ liệu điện tử có liên quan. Trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và tiến hành bảo quản như đối với vật chứng. Khi thu thập, chặn thu, sao lưu dữ liệu điện tử từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc trên đường truyền, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản mô tả đầy đủ, đúng thực trạng, tiến hành niêm phong theo quy định của pháp luật[5]. Hoạt động thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử diễn ra ở tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự và có đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ gồm: Tính liên quan, tính khách quan và tính hợp pháp.

2. Một số vấn đề vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực tiễn thu thập chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử

Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy đủ, mô tả đúng thực trạng” hoặc “trường hợp không thể thu giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng sao lưu dữ liệu điện tử đó vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng”. Trong khi đó, tên của Điều 107 lại là “Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử”. Trong khoa học pháp lý, “thu thập” và “thu giữ” tuy có những điểm giống nhau nhưng không thống nhất về nội hàm. Dữ liệu điện tử là một trong những loại nguồn của chứng cứ nên cần được “thu thập”[6] để chứng minh trong vụ án hình sự[7]. Ngược lại, phương tiện điện tử là nơi chứa đựng dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải “thu giữ” để “thu thập” chứng cứ là dữ liệu điện tử. Do đó, tên của Điều 107 là chưa hợp lý khi “đánh đồng” hai khái niệm “thu thập” và “thu giữ”. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nêu: “Trường hợp không thể thu giữ được thì phải sao lưu vào phương tiện lưu trữ và thu giữ như đối với vật chứng”. Như vậy, “phương tiện lưu trữ” có đồng nhất với “phương tiện điện tử” hay không? Tại sao lại có quy định khác nhau và cần phải hiểu như thế nào cho đúng?[8].

Thứ hai, căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, hoạt động thu thập chứng cứ nói chung và thu thập chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử nói riêng chưa có sự phân biệt. Trong khi đó, chứng cứ là dữ liệu điện tử có những đặc điểm riêng biệt như: Dễ bị thay đổi, chỉnh sửa; có thể bị hỏng dữ liệu bất cứ lúc nào bởi nhiều lý do khách quan; có thể phục hồi dữ liệu điện tử nếu đã bị xóa hoặc dữ liệu điện tử trên môi trường mạng như: Tài khoản email, địa chỉ IP, cookie thì cách thức thu thập không thể thực hiện giống như thông thường.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 223 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Vậy, quy định này được tiến hành như thế nào để bảo đảm rằng sẽ có giá trị chứng minh và được sử dụng làm chứng cứ vụ án khi chưa có văn bản hướng dẫn về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành. Đặc biệt là đối với việc thu thập dữ liệu điện tử bí mật, cơ quan có thẩm quyền có được phép thu thập bí mật dữ liệu điện tử khi sử dụng những chương trình gián điệp như virus; keylogker; backdoor… nhằm xác định vị trí đối tượng; bí mật thu thập tin nhắn; ghi âm; thu thập dữ liệu file hình ảnh, video từ điện thoại; địa chỉ IP… để sử dụng làm chứng cứ hay không thì đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể. Thực tiễn và căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành, nếu thu được những thông tin, tài liệu nêu trên không thể đáp ứng tính hợp pháp của chứng cứ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, do còn thiếu những quy định về trình tự, thủ tục đối với hoạt động thu thập chứng cứ này.

Thứ ba, theo quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, dữ liệu điện tử khi được thu thập như: File âm thanh, hình ảnh, video… không thuộc trường hợp bắt buộc phải giám định. Như vậy, rất khó để bảo đảm tính khách quan của dữ liệu điện tử này khi được sử dụng làm chứng cứ để chứng minh trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, nếu người bào chữa khi thu thập dữ liệu điện tử bàn giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để kiểm tra, xác minh nhưng không tiến hành giám định dữ liệu điện tử này thì rất khó thuyết phục người bào chữa là vì sao cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không sử dụng dữ liệu điện tử do người bào chữa cung cấp để làm chứng cứ[9].

Thứ tư, ngày 10/9/2012, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông. Đây là văn bản hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, trong đó có quy định về trình tự, thủ tục thu thập dữ liệu điện tử cũng như chuyển hóa những thông tin, tài liệu được lưu trữ trong các phương tiện điện tử thành chứng cứ của vụ án. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì Thông tư này mặc dù cho đến nay chưa có văn bản thay thế hoặc hủy bỏ nhưng cũng đã bị hết hiệu lực (do đây là văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Hiện nay, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quy trình thu thập, phục hồi, phân tích dữ liệu điện tử, do đó, đã gây một số khó khăn nhất định cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung tên Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 từ “Thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử” thành “Thu giữ phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử” để bảo đảm thể hiện đầy đủ nội hàm và sự thống nhất về thuật ngữ pháp lý trong tố tụng hình sự.

Thứ hai, cần quy định các nguyên tắc trong thu thập chứng cứ điện tử trên tinh thần bảo đảm rằng, không làm thay đổi thông tin được lưu trong máy tính hoặc các thiết bị kỹ thuật số; khi phải tiếp cận với thông tin gốc được lưu giữ trong máy tính hoặc trong các thiết bị kỹ thuật số thì người tiếp cận phải là những chuyên gia được đào tạo để thực hiện việc thu thập và phục hồi chứng cứ điện tử; việc ghi lại dữ liệu (copy) phải được thực hiện đúng quy trình, phải sử dụng các thiết bị và phần mềm được thế giới công nhận và có thể kiểm chứng được; phải bảo vệ được tính nguyên vẹn của dữ liệu điện tử lưu trong máy. Đồng thời, quy trình thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử phải bảo đảm yếu tố có khả năng phục hồi được nếu có sự cố xảy ra mất dữ liệu do nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Đối với trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản chứng cứ điện tử, cần hướng dẫn cụ thể theo hướng: Khi tiến hành thu thập chứng cứ điện tử từ máy vi tính không tắt CPU theo trình tự thông thường (shutdown) mà ngắt nguồn cung cấp điện trực tiếp cho CPU máy tính để bàn hoặc máy tính xách tay. Việc thu thập như vậy mới giúp các thông tin điện tử còn lưu trên máy tính, để khi bàn giao cho cán bộ có trách nhiệm phục hồi dữ liệu điện tử mới có thể bảo đảm tính nguyên vẹn. Trong đó, cần chú trọng xây dựng các biện pháp và chỉ dẫn kỹ thuật liên quan đến việc áp dụng như tên, đặc điểm, xuất xứ các loại máy móc, thiết bị ghi âm, ghi hình, phần mềm thu thập dữ liệu điện tử được phép sử dụng.

Đối với việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nhất là biện pháp thu thập bí mật dữ liệu điện tử, giữa Bộ Công an và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn để thống nhất phương pháp tiến hành phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và tình hình thực tế đấu tranh phòng, chống tội phạm. Theo tác giả, cần nghiên cứu theo hướng cho phép các đơn vị nghiệp vụ của Bộ Công an áp dụng mọi biện pháp nghiệp vụ và các phương tiện kỹ thuật số để có thể thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ ba, để thu thập chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử, ngoài việc bảo đảm nắm vững các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ thì người tiến hành tố tụng còn phải chú ý đến việc nâng cao trình độ công nghệ thông tin. Để thực hiện giải pháp này, đỏi hỏi phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phát hiện và thu thập dữ liệu điện tử cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhất là các cán bộ trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, kỹ thuật hình sự, giám định tư pháp như các khóa học thu thập, phục hồi dữ liệu; đào tạo kiến thức chuyên sâu về hệ thống an ninh, an toàn mạng…

Thứ tư, hoàn thiện về tổ chức, ưu tiên trang bị phương tiện cho các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thu thập chứng cứ có nguồn là dữ liệu điện tử tại cấp huyện, đồng thời nâng cao trình độ khai thác và sử dụng thiết bị chuyên dụng để thu thập, phục hồi dữ liệu chứng cứ điện tử phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Kinh phí để trang bị công cụ, phương tiện có thể đề xuất từ các nguồn của trung ương, địa phương, ngoài ra, có thể vận động kinh phí từ các doanh nghiệp, doanh nhân và nhân dân để bảo đảm nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của chiến lược./.

TS. Nguyễn Tiến Nam

Trường Đại học Cảnh sát nhân dân

[1]. Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2]. Khoản 1 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3]. Khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[4]. Khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[5]. Khoản 1, 2 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[6]. Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7]. Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[8]. Võ Minh Tuấn (2021), Khó khăn, vướng mắc về dữ liệu điện tử trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/kho-khan-vuong-mac-ve-du-lieu-dien-tu-trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015.

[9]. Trịnh Duy Thuyên, “Bàn về tính khách quan, hợp pháp của chứng cứ do người bào chữa thu thập trong vụ án hình sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số tháng 7/2022.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm