Thứ sáu 20/06/2025 12:18
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về điều kiện độ tuổi trong nuôi con nuôi

Tóm tắt: Bài viết nêu lên những bấp cập trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về điều kiện độ tuổi trong nuôi con nuôi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Abstract: The article points out insufficiencies in the practice of application of legal provisions with respect to age term in the adoption, especially in mountainous, remote areas, in ethnic groups, in the border and recommendations for completion of this issue.

Nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính đạo đức xã hội sâu sắc, thể hiện tính tương thân, tương ái giúp đỡ lẫn nhau giữa con người và con người. Nuôi con nuôi cũng thể hiện rõ quan điểm, trẻ em cần phải được bảo vệ và chăm sóc, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của những trẻ em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn hoặc không nơi nương tựa. Việc nuôi con nuôi trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha mẹ và con cái. Do đó, người con nuôi được phát triển cả về thể chất và tinh thần.

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đã khẳng định: “Để phát triển đầy đủ và hài hòa nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành hơn trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và thông cảm”. Đảng, Nhà nước ta luôn có những hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, các điều ước quốc tế. Điều này có thể chứng minh rằng, ngay cả đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp, đến bộ luật, luật, nghị quyết, nghị định, thông tư… đều có những quy định đầy đủ về nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục cho, nhận con nuôi.

Năm 2010, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, Quốc hội ban hành Luật Nuôi con nuôi (trước đó, các quy định về nuôi con nuôi được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật Dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác). Theo đó, các quy định về nuôi con nuôi được thể hiện rõ nét hơn. Ý nghĩa của việc nuôi con nuôi một lần nữa được khẳng định trong một đạo luật quan trọng. Tuy nhiên, bài viết chỉ bàn đến một số vần đề điều kiện về độ tuổi trong nhận nuôi con nuôi.

Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010, điều kiện của người được nhận làm con nuôi là: (i) Trẻ em dưới 16 tuổi; (ii) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi; (iii) Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

Luật Nuôi con nuôi năm 2010 cũng quy định một nguyên tắc cơ bản trong nhận nuôi con nuôi tại khoản 4 Điều 8 là: “Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi”. Tương ứng với điều kiện của người được nhận làm con nuôi, điều kiện của người nhận con nuôi cũng được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, cụ thể như sau: “Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; có tư cách đạo đức tốt”.

Trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan điều kiện về độ tuổi trong nuôi con nuôi, tác giả thấy có một số bất cập, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi dân cư sống thưa thớt. Sự bất cập về điều kiện độ tuổi trong nuôi con nuôi có liên quan đến điều kiện về độ tuổi đăng ký kết hôn. Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định điều kiện về độ tuổi kết hôn như sau: “Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy, người nhận con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên (ít nhất là đủ 19 năm 01 ngày), không phân biệt giới tính là nam hay nữ. Thế nhưng, điều kiện kết hôn lại phân biệt độ tuổi giữa nam và nữ: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.

Sự không tương đồng về độ tuổi như trên dẫn đến các trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Một cặp vợ chồng, chồng từ đủ 20 tuổi trở lên, người vợ từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 20 tuổi, cặp vợ chồng này có thể có con đẻ, nhưng lại không đủ điều kiện nhận con nuôi, do vợ chưa đủ điều kiện “hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên”. Vì vậy, người vợ trong trường hợp này đủ điều kiện làm vợ, làm mẹ theo quy định của pháp luật, nhưng không đủ điều kiện làm mẹ nuôi cũng bởi các quy định của pháp luật. Giải thích về sự không tương đồng điều kiện về độ tuổi này, một số quan điểm cho rằng, việc quy định về độ tuổi trong điều kiện nhận nuôi con nuôi “lệch” so với điều kiện về độ tuổi trong kết hôn là để tạo điều kiện cho cặp vợ chồng hiếm muộn có một khoảng thời gian chung sống, để có con chung. Bởi lẽ, tâm lý của người Á Đông là “một đống con nuôi, không bằng một người con đẻ”. Trong khoảng thời gian người vợ từ đủ 18 tuổi đến dưới 20 tuổi (như trong trường hợp này), người vợ ở trong điều kiện độ tuổi vẫn còn trẻ, còn có cơ hội sinh con, nên không nhất thiết phải nhận con nuôi.

Việc lý giải như vậy có vẻ hợp lý, tuy nhiên, xin đưa ra ví dụ sau để chứng minh sự bất cập trong quy định trên của pháp luật: Gia đình ông Giàng Bả Tủa cư trú tại bản Huổi Sang, xã Sam Kha, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Cả bản Huổi Sang có 16 hộ gia đình, trong đó có 15 hộ gia đình là hộ nghèo. Ngày 13/12/2016, vợ chồng ông Tủa chết vì bị tai nạn giao thông. Cháu Giàng Bả Dở (sinh ngày 20/10/2016) là con của ông Tủa không có người chăm sóc. Vợ chồng ông Hạng A Chống (sinh ngày 16/5/1995) và chị Sộng Thị Mỷ (sinh ngày 28/01/1998) cư trú tại bản Huổi Sang, là gia đình duy nhất trong bản không phải là hộ nghèo. Mặt khác, ông Chống và bà Mỷ cũng có con nhỏ là cháu Hạng A Vạ (sinh ngày 10/10/2016) nên muốn nhận cháu Dở làm con nuôi, vừa là giúp đỡ cháu Dở, vừa là cho con đẻ của ông Chống bà Mỷ có thêm anh, thêm em. Tuy nhiên, ngày 20/01/2017, khi thực hiện thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân xã Sam Kha, công chức tư pháp - hộ tịch của xã đã từ chối thụ lý hồ sơ với lý do: Bà Sộng Thị Mỷ không đủ điều kiện nhận con nuôi vì không thỏa mãn điều kiện về độ tuổi theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi là “hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên”.

Ở ví dụ cụ thể này, bà Sộng Thị Mỷ đã kết hôn đúng độ tuổi theo quy định của pháp luật, sau đó mới mang thai và sinh con. Tuy nhiên, bà Mỷ lại không đủ điều kiện để nhận con nuôi, mặc dù người được nhận nuôi bằng tuổi hoặc thậm chí kém tuổi (nếu tính cả về ngày, tháng) con đẻ của mình. Trong hoàn cảnh này, cháu Dở mồ côi, nên rất cần nhận được sự yêu thương, chăm sóc. Mặt khác, gia đình ông Chống và bà Mỷ là hộ duy nhất trong bản không phải là hộ nghèo, nên có đủ điều kiện về kinh tế. Bên cạnh đó, Bà Mỷ cũng vừa mới sinh cháu Vạ, nên việc nhận nuôi cháu Dở cũng là tạo điều kiện cho cháu Dở được hưởng dòng sữa mẹ. Nếu như Ủy ban nhân dân xã Sam Kha thụ lý giải quyết theo nguyên tắc “Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi” sẽ được thực hiện. Tuy nhiên, quan hệ cha, mẹ - con nuôi đã không được thiết lập do sự “bất tương đồng” trong các quy định của pháp luật.

Trường hợp thứ hai: Một người nam giới đơn thân, đã đủ 19 tuổi 01 ngày trở lên, nhưng chưa đủ 20 tuổi chưa đủ điều kiện kết hôn, nhưng lại đủ điều kiện nhận con nuôi.

Ví dụ: Bà Tòng Thị Chung, cư trú tại bản Gia Lan, xã Mường Giàng, huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La, có con ngoài giá thú là cháu Tòng Văn Hải (sinh ngày 22/02/2017). Ngày 18/4/2017, bà Chung kết hôn với ông Quàng Văn Bạt. Do đó, bà Chung đã đồng ý cho cháu Hải làm con nuôi của ông Lò Trung Thành (sinh ngày 16/01/1998). Ngày 25/4/2017, ông Thành đã đăng ký nhận nuôi con nuôi tại Ủy ban nhân dân xã Mường Giàng. Tuy nhiên, là đàn ông, lại đơn thân, lại phải đi làm nương, nên ông Thành thường xuyên phải gửi cháu Hải cho hàng xóm. Do đó, việc chăm sóc con nhỏ cùng công việc nương rẫy của ông trở nên rất khó khăn và không được đảm bảo. Để gánh nặng được chia sẻ, ông Thành quyết định kết hôn cùng bà Vì Thị Tuyết. Ngày 16/5/2017, ông Thành và bà Tuyết đến Ủy ban nhân dân xã Mường Giàng đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, công chức tư pháp - hộ tịch xã đã từ chối thụ lý, bởi ông Thành chưa đủ điều kiện về độ tuổi kết hôn theo quy định điểm a khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Như vậy, ở ví dụ này, chúng ta thấy sự ngược lại của ví dụ trong trường hợp 1, nếu cùng xét điều kiện về độ tuổi. Ở ví dụ trong trường hợp 1 thì người nhận con nuôi đủ điều kiện kết hôn, nhưng không đủ điều kiện nhận con nuôi. Ở ví dụ trong trường hợp 2 thì người nhận con nuôi đủ điều kiện nhận con nuôi, nhưng lại không đủ điều kiện kết hôn.

Trong thực tiễn đăng ký nuôi con nuôi hiện nay ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, đối với các trường hợp vướng mắc trên, nếu công chức tư pháp - hộ tịch không thụ lý giải quyết thì sẽ dễ nảy sinh ra những vi phạm pháp luật khác. Vì đứa trẻ được nhận làm con nuôi còn rất nhỏ (mới được vài tháng tuổi), thậm chí có trường hợp còn chưa đăng ký khai sinh. Khi xảy ra những vướng mắc điều kiện độ tuổi trong trường hợp trên, người nhận con nuôi thường “lách luật” bằng cách đi xin lại giấy chứng sinh để biến con nuôi thành con đẻ (trong ví dụ của trường hợp 1) hoặc đổi lại ngày, tháng, năm sinh của đứa trẻ được nhận làm con nuôi cho phù hợp với điều kiện của pháp luật (trong ví dụ của trường hợp 2); hoặc họ không có giấy chứng sinh mà chỉ viết cam đoan về việc sinh (vì sinh ra ở nhà) nhưng các thông tin về việc sinh đó đã bị thay đổi, không đúng sự thật. Vẫn biết rằng, việc cấp giấy chứng sinh và viết cam đoan như vậy là không đúng quy định, nhưng công tác kiểm soát và kiểm tra là rất khó khăn đối với vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng có địa hình rộng, mật độ dân cư thưa thớt. Bởi nếu xét hồ sơ, giấy tờ, thì không phát hiện ra sai phạm, trừ khi công chức tư pháp - hộ tịch biết rõ về việc sinh.

Qua các trường hợp trên, để có sự tương thích, thống nhất giữa các đạo luật, thiết nghĩ nên có sự điều chỉnh về độ tuổi chênh lệch giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi theo giới tính của người nhận con nuôi. Ví dụ, điểm b khoản 1 Điều 14 có thể sửa thành: “Người được nhận làm con nuôi phải kém người được nhận làm cha nuôi ít nhất từ đủ 20 tuổi trở lên, kém người được nhận làm mẹ nuôi ít nhất từ đủ 18 tuổi trở lên”.

Trên đây là một số ý kiến trao đổi về điều kiện về độ tuổi trong nuôi con nuôi, rất mong các nhà làm luật lưu tâm và có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn áp dụng pháp luật, nhất là địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng biên giới.

Cao Thị Quỳnh

Trường Chính trị tỉnh Sơn La

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm