
Điều kiện giao dịch chung là bộ phận không tách rời hợp đồng dịch vụ logistics. Trong hợp đồng dịch vụ logisics, một chủ thể cung ứng dịch vụ như hãng hàng không, các hãng tàu biển, các nhà cung ứng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa… không thể đàm phán hết được với tất cả các khách hàng trong cùng một điều kiện vận chuyển, cùng tính chất của một loại hàng hóa. Họ áp dụng điều kiện giao dịch chung nhằm giảm bớt thời gian đàm phán, tiết kiệm chi phí đi lại, tạo thuận tiện cho các bên (cho chính họ và đối tác).
Trong bài viết, tác giả bên cạnh việc phân tích lý luận pháp luật về điều kiện giao dịch chung còn nêu các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng dịch vụ logistics, qua đó bàn luận sâu về một số vấn đề đặt ra trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics có sử dụng điều kiện giao dịch chung.
1. Lý luận pháp luật về điều kiện giao dịch chung
Điều kiện giao dịch chung xuất hiện trên thế giới từ khoảng thế kỷ XIX nhưng ở nước ta được luật hóa trong Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và sau đó là Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo xu hướng của nền sản xuất đại trà, các hợp đồng sản xuất, phân phối và chuyển giao hàng hóa và dịch vụ thường được điều chỉnh bởi các điều khoản và điều kiện soạn sẵn của một trong các bên trong hợp đồng (General Terms and Conditions - GTSs) hay “standard terms”[1]. Hợp đồng vận tải hàng hóa và hợp đồng bảo hiểm hàng hóa do bên cung ứng dịch cung cấp dịch vụ cho nhiều khách hàng có cùng một nhu cầu giống nhau, vì vậy họ sẽ sử dụng điều kiện giao dịch chung. Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản soạn sẵn, được chuẩn bị trước, được sử dụng lặp lại bởi một bên và thường được sử dụng mà không thương lượng với bất kỳ bên nào khác. Đặc trưng tiêu biểu của các điều khoản soạn sẵn là không thương lượng riêng với các bên trong hợp đồng[2].
Điều kiện giao dịch chung do bên cung ứng dịch vụ đưa ra, áp dụng chung cho bên sử dụng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ chấp nhận giao kết hợp đồng thì phải chấp nhận điều kiện này. Mục đích của điều kiện giao dịch chung là giúp cho các bên giao kết dễ dàng, tiết kiệm thời gian và chi phí. Khi giao kết hợp đồng, các bên hướng đến điều kiện giao dịch chung chính là hướng đến tính ổn định, tiêu chuẩn và thống nhất trong hợp đồng. Điều kiện giao dịch chung do một bên đưa ra nên thường được xây dựng theo hướng có lợi cho người soạn ra nó, tạo lợi thế cho mình, áp đặt đối tác còn lại. Để tạo sự công bằng giữa các bên thì điều kiện giao dịch chung phải đảm bảo sự bình đẳng. Trường hợp điều kiện giao dịch chung do bên kinh doanh dịch vụ đưa ra có những điều khoản gây bất lợi cho khách hàng, miễn trách nhiệm của mình thì điều kiện đó vô hiệu.
Từ lý luận trên đây, có thể thấy điều kiện giao dịch chung có những đặc điểm sau đây:
Một là, điều kiện giao dịch chung là những quy tắc ổn định do một bên đơn phương thiết lập mà không thông qua sự thỏa thuận từ phía đối tác. Điều kiện giao dịch chung thể hiện ý chí của một bên trong quan hệ hợp đồng và có tính chất ổn định, lâu dài.
Hai là, điều kiện giao dịch chung là một bộ phận không tách rời của hợp đồng, có sự ràng buộc pháp lý đối với bên được đề nghị. Bên được đề nghị ký hợp đồng là chấp nhận điều kiện giao dịch chung và không thể sửa chữa, thay đổi.
Ba là, điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực khi được công bố công khai và bên được đề nghị phải được biết điều đó hoặc phải được phổ biến, được tiếp cận dễ dàng.
Bốn là, điều kiện giao dịch chung phải đảm bảo bình đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung không đảm bảo được yếu tố này sẽ bị vô hiệu (trừ khi các bên có thỏa thuận khác).
Điều kiện giao dịch chung là bộ phận không tách rời hợp đồng dịch vụ logistics. Trong hợp đồng dịch vụ logisics, một chủ thể cung ứng dịch vụ như hãng hàng không, các hãng tàu biển, các nhà cung ứng dịch vụ bảo hiểm hàng hóa… không thể đàm phán hết được với tất cả các khách hàng trong cùng một điều kiện vận chuyển, cùng tính chất của một loại hàng hóa. Họ áp dụng điều kiện giao dịch chung nhằm giảm bớt thời gian đàm phán, tiết kiệm chi phí đi lại, tạo thuận tiện cho các bên (cho chính họ và đối tác). Đây là việc rất phổ biến trong thực tế, có thể dễ dàng nhận thấy các điều lệ vận chuyển hay các điều kiện bảo hiểm hàng hóa được niêm kết công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang thông tin điện tử, thậm chí là tại nơi làm việc của các nhà cung cấp dịch vụ này.
Hợp đồng dịch vụ logistics thường qua nhiều khâu, nhiều công đoạn và mỗi một công đoạn có điều kiện giao dịch chung khác nhau. Điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng dịch vụ logistics còn được gọi nhiều tên khác nhau như điều lệ vận chuyển, quy tắc bảo hiểm... Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 quy định Điều lệ vận chuyển phải được đăng ký với Bộ Giao thông vận tải. Điều lệ là một phần không tách rời của hợp đồng hoặc bất kỳ thỏa thuận nào giữa hãng hàng không với khách hàng. Điều 111 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 quy định: “Điều lệ vận chuyển là bộ phận cấu thành của hợp đồng vận chuyển hàng không, quy định các điều kiện của người vận chuyển đối với việc vận chuyển hành khách, hành lý, hàng hoá, bưu gửi bằng đường hàng không”.
Trên trang thông tin điện tử của hãng hàng không Vietnam Airline đăng tải công khai về Điều lệ vận chuyển hàng hóa[3]. Khi ký kết hợp đồng vận chuyển, khách hàng mặc nhiên phải biết và được coi là chấp nhận điều kiện giao dịch này. Thông thường, hợp đồng sẽ dẫn chiếu đến các điều lệ và quy tắc trên, điều lệ và quy tắc đó là một phần không tách rời của hợp đồng. Ví dụ, Điều 128 Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 quy định về hợp đồng vận chuyển hàng hoá như sau: “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá là sự thoả thuận giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển có nghĩa vụ vận chuyển hàng hoá đến địa điểm đến và trả hàng hoá cho người có quyền nhận; người thuê vận chuyển có nghĩa vụ thanh toán giá dịch vụ vận chuyển. Người vận chuyển là tổ chức cung cấp dịch vụ vận chuyển thương mại bằng đường hàng không. Vận đơn hàng không, các thoả thuận khác bằng văn bản giữa hai bên, Điều lệ vận chuyển, bảng giá dịch vụ vận chuyển là tài liệu của hợp đồng vận chuyển hàng hóa”.
Trong vận đơn cũng có những điều kiện giao dịch chung ở mặt sau do hãng vận chuyển phát hành và khách hàng không được đàm phán những điều kiện này (thường là những điều khoản miễn trách của người chuyên chở, trường hợp bất khả kháng, miễn trừ rủi ro).
2. Quy định pháp luật Việt Nam về điều kiện giao dịch chung trong hợp đồng dịch vụ logistics
Khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng”. Luật này cũng quy định cụ thể về các điều khoản của giao dịch chung không có hiệu lực pháp luật (Điều 16), thực hiện điều kiện giao dịch chung (Điều 18), kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung (Điều 19).
Với phương thức giao dịch điện tử, nội dung điều kiện giao dịch chung được quy định tại Điều 32 Nghị định số 52/2013/NP-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử. Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 32 Nghị định này quy định: “Trong trường hợp website có chức năng đặt hàng trực tuyến, người bán phải có cơ chế để khách hàng đọc và bày tỏ sự đồng ý riêng với các điều kiện giao dịch chung trước khi gửi đề nghị giao kết hợp đồng”.
Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng”. Nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này. Điều kiện giao dịch chung thực chất là các điều khoản mẫu trong hợp đồng do một bên soạn sẵn để áp dụng, bên còn lại không có khả năng đàm phán thay đổi nội dung mà chỉ có quyền chấp nhận hoặc từ chối.
Vấn đề đặt ra là liệu rằng điều kiện giao dịch chung có làm mất đi tính bình đẳng, nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận trong quan hệ dân sự hay không khi bên còn lại hầu như không có quyền thương lượng đối với các điều khoản là điều kiện giao dịch chung và việc sử dụng điều kiện giao dịch chung có thể tạo ra các điều khoản gây bất lợi cho bên kia, như vậy sẽ không đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Để đảm bảo hài hòa quyền lợi của các bên trong hợp đồng, Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về điều kiện để giao dịch chung trong giao kết hợp đồng có hiệu lực là: Phải được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó; trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung thực hiện theo quy định của pháp luật; phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên, trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
So với Bộ luật Dân sự năm 2015 thì Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 có những quy định cụ thể hơn về các điều khoản sẽ vô hiệu nếu được ghi nhận trong điều kiện giao dịch chung tại khoản 1 Điều 16, cụ thể là: (i) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật; (ii) Hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng; (iii) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thỏa thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện cụ thể trong hợp đồng; (iv) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương xác định người tiêu dùng không thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ; (v) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ quy định hoặc thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ; (vi) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ giải thích hợp đồng trong trường hợp điều khoản của hợp đồng được hiểu khác nhau; (vii) Loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thông qua bên thứ ba; (viii) Bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình; (ix) Cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý.
Điều kiện giao dịch chung còn được quy định từ Điều 7 đến Điều 16 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Nghị định số 99/2011/NĐ-CP), cụ thể: Hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải được lập thành văn bản và phải đáp ứng đủ các điều kiện sau: Ngôn ngữ sử dụng bằng tiếng Việt, nội dung phải rõ ràng, dễ hiểu; cỡ chữ ít nhất là 12; nền giấy và màu mực thể hiện nội dung hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải tương phản nhau. Hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ phải đăng ký theo quy định của Thủ tướng Chính phủ, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện việc đăng ký theo quy định của Nghị định này. Hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung chỉ được áp dụng đối với người tiêu dùng khi việc đăng ký được hoàn thành theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP.
Các hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung áp dụng trên phạm vi cả nước hoặc áp dụng trên phạm vi từ hai tỉnh trở lên phải đăng ký với Bộ Công thương và với Sở Công thương nếu có phạm vi áp dụng trong tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung được ban hành theo các quyết định sau: Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung; Quyết định số 38/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.
3. Những vấn đề đặt ra trong việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics có sử dụng diều kiện giao dịch chung
3.1. Đối với bên đề nghị sử dụng điều kiện giao dịch chung
Điều kiện giao dịch chung do bên cung ứng dịch vụ đề nghị, đưa ra trước và đặt khách hàng vào thế buộc phải giao kết. Điều này là rất phổ biến trong vận tải và bảo hiểm hàng hóa. Việc các doanh nghiệp sử dụng hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung đã hạn chế phần nào nguyên tắc tự do hợp đồng. Khách hàng thường phải chấp nhận các điều kiện mà bên cung ứng đưa ra hoặc ít có cơ hội đàm phán, khách hàng ở thế yếu, phải chấp nhận, đôi khi không biết đến quyền bảo lưu. Theo pháp luật, hợp đồng là quan hệ ý chí, là sự thống nhất ý chí thật và tự do, là luật của các bên tham gia hợp đồng. Trên thực tế, hợp đồng mẫu và điều kiện giao dịch chung đã làm mờ đi quyền tự do của khách hàng. Ví dụ như: Điều kiện giao dịch chung của bộ vận đơn. Mặt trước là các thông tin người gửi hàng, người nhận, tên tàu bay/tàu biển, ngày đi, ngày đến, mô tả hàng hóa, kích thước, khối lượng. Mặt sau quy định về các trường hợp miễn trách, mức bồi thường hư hỏng mất mát... Mặt sau của đơn bảo hiểm, chứng thư bảo hiểm đều thể hiện các điều kiện giao dịch chung, áp dụng cho mọi hợp đồng bảo hiểm, các rủi ro tổn thất được bảo hiểm, các rủi ro loại trừ, phạm vi, trách nhiệm bảo hiệm về không gian, thời gian, quyền và nghĩa vụ các bên, quy định về giám định, bồi thường, khiếu nại, giải quyết tranh chấp.
Đối với doanh nghiệp cung ứng dịch vụ logistics, khi đưa ra điều kiện giao dịch chung cần nắm được tinh thần của luật vì nếu không doanh nghiệp sẽ rất dễ đưa vào hợp đồng và điều kiện giao dịch chung mang những điều khoản trái pháp luật, từ đó dẫn đến tranh chấp xảy ra, có thể dẫn đến kiện tụng, sẽ gây thiệt hại về uy tín và tiền bạc cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, với tính chất ổn định, không bị sửa chữa điều chỉnh, không gặp bất lợi khi giải thích thì các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ vẫn nên xây dựng và áp dụng trong các hợp đồng của mình nhưng phải đảm bảo: Công khai các điều kiện giao dịch chung trên website của đơn vị hoặc phổ biến cho người đề nghị giao kết được biết; hạn chế tối đa các điều khoản tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia khi trường hợp hai bên không có thỏa thuận chấp nhận nó.
3.2. Đối với bên sử dụng dịch vụ logistics
Cá nhân, tổ chức sử dụng dịch vụ logistics cần lưu ý các điều kiện giao dịch chung, hợp đồng mẫu mà bên cung ứng dịch vụ đưa ra trước. Điều kiện giao dịch chung do bên cung ứng soạn thảo thường có xu hướng quy định những điều khoản có lợi cho mình trong mọi trường hợp và có điều khoản gây bất lợi cho khách hàng ở một khía cạnh nào đó. Những điều kiện giao dịch chung mà bên cung ứng dịch vụ đưa ra khách hàng không thể thay đổi được mà chỉ có hai lựa chọn một là chấp nhận, hai là từ chối. Nếu chấp nhận những điều khoản đó thì một khi tranh chấp xảy ra khách hàng phần lớn chịu thiệt về mình.
Khi hợp đồng có chứa đựng các điều kiện giao dịch chung, bên được đề nghị giao kết hợp đồng, các tổ chức, cá nhân cần phải chú ý: Yêu cầu bên đưa ra điều kiện giao dịch chung giải thích rõ về tất cả các điều khoản trong hợp đồng; cân nhắc, xem xét thật kỹ các điều kiện giao dịch chung, những điều khoản loại bỏ quyền và lợi ích hợp pháp, tăng thêm trách nhiệm và không thỏa thuận chấp nhận các điều khoản này; đàm phán đối với những điều khoản dễ gây bất lợi cho mình.
Để tránh những bất lợi, bên sử dụng dịch vụ cần đọc kỹ điều kiện giao dịch chung, lưu ý nghĩa vụ của bên cung ứng vì những điều khoản này thường thiết kế theo hướng giám thiểu tối đa trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ, so sánh các điều khoản mẫu đó có phù hợp với pháp luật hay không, có xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình hay không, từ đó mới đi đến quyết định có nên ký hợp đồng hay không. Với những hợp đồng có giá trị lớn, bên sử dụng dịch vụ nên tìm các đối tác có uy tín, đáng tin cậy, chất lượng dịch vụ tốt để đàm phán và ký hợp đồng. Tổ chức, cá nhân khi đàm phán hợp đồng cần đưa ra chi tiết các điều khoản về nghĩa vụ của bên cung ứng để ràng buộc trách nhiệm của họ đối với chất lượng dịch vụ cung ứng.
3.3. Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Do đặc thù của điều kiện giao dịch chung mà trước khi đưa vào áp dụng cần phải tiến hành đăng ký. Việc đăng ký nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người sử dụng, thông qua việc chấp thuận về việc đăng ký này cũng giúp Nhà nước kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời kiểm soát rủi ro cho người sử dụng dịch vụ. Vai trò của các đơn vị chức năng là kiểm tra sự chấp hành các điều kiện giao dịch chung qua các tiêu chí như:
Thứ nhất, về thủ tục hành chính: Doanh nghiệp có đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay không. Nhiều điều kiện giao dịch chung pháp luật chuyên ngành quy định cần phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, cần kiểm tra sự tuân thủ này tại các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp (ví dụ như Điều lệ vận chuyển phải được đăng ký với Bộ Giao thông vận tải).
Thứ hai, hình thức thực hiện điều kiện giao dịch chung: Đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Việt, cỡ chữ, nền giấy và màu mực tương phản nhau đúng quy định (theo Nghị định số 99/2011/NĐ-CP).
Thứ ba, về thực hiện điều kiện giao dịch chung: Kiểm tra sự niêm yết công khai, công bố rộng rãi tại địa điểm giao dịch.
Thứ tư, về các điều khoản không có hiệu lực: Kiểm tra những điều khoản bất công bằng, tăng trách nhiệm và giảm quyền lợi của bên được đề nghị.
ThS. Đào Thị Cấm
Vụ Pháp chế, Bộ Công Thương