Thứ bảy 02/08/2025 14:16
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án hình sự

Bài viết này đề cập quy định pháp luật về thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án hình sự, trên cơ sở đó, phân tích những vướng mắc, bất cập và đưa ra một số kiến nghị liên quan.

1. Quy định pháp luật về thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) về việc xử lý vật chứng thì: “Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản”. Như vậy, ngoài Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền điều tra đối với vụ án hình sự, nội dung này được quy định tại Điều 10 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021: “Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này”. Phạm vi thẩm quyền điều tra vụ án hình sự của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra còn phụ thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết định khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự”.

Như vậy, có thể thấy, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự và trong một số trường hợp luật định thì có thể kết luận điều tra. Trong các trường hợp này, để bảo đảm giải quyết đầy đủ, chính xác vụ án hình sự, các cơ quan này không chỉ phải thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng mà còn cần xem xét vấn đề xử lý vật chứng. Đây chính là cơ sở để quy định thẩm quyền xử lý vật chứng cho các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung thẩm quyền này tại khoản 1 Điều 106 là hoàn toàn hợp lý.

Theo đó, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án hình sự có thẩm quyền xử lý vật chứng trong hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, khi vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra (khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Khi có các căn cứ theo Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thể đình chỉ điều tra vụ án hình sự đã khởi tố. Khi đó, tất cả các hoạt động điều tra hay các hoạt động tố tụng khác sẽ được dừng lại. Các vật chứng theo đó cần phải được xử lý, bởi lẽ, việc tiếp tục thu giữ, bảo quản vật chứng là không còn cần thiết, ngoài ra, còn có thể gây ra các vấn đề như phát sinh chi phí thuê bến bãi, kho chứa hàng, kho lạnh bảo quản, vật chứng dễ hư hỏng, xuống cấp, hết thời hạn sử dụng, mất giá trị[1]... Trong trường hợp này, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền áp dụng tất cả các biện pháp xử lý vật chứng được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bao gồm: Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước; tịch thu, tiêu hủy; trả lại vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; bán; giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành. Việc xử lý vật chứng phải được ghi rõ trong quyết định đình chỉ điều tra (khoản 2 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) cũng như trong kết luận điều tra trong trường hợp đình chỉ điều tra vụ án hình sự (Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Trường hợp thứ hai, trong quá trình điều tra vụ án hình sự mà nhận thấy việc xử lý vật chứng là cần thiết và không gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án (khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).

Trong trường hợp này, vụ án hình sự vẫn đang được tiếp tục điều tra, các hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành các giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, việc xử lý vật chứng là cần thiết, chủ yếu do tính chất đặc biệt của các loại vật chứng dẫn đến việc tiếp tục tạm giữ là không phù hợp, gây khó khăn cho công tác bảo quản cũng như ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan. Các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thể ra quyết định xử lý vật chứng ngay khi đang điều tra với những loại vật sau: Tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng; vật chứng mà trả lại ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án; vật chứng thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản; vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai. Việc tiến hành xử lý vật chứng này phải bảo đảm không gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.

2. Một số vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án hình sự

Thứ nhất, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định thẩm quyền xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tại Điều 106, tuy nhiên, lại không có quy định cụ thể về chủ thể có thẩm quyền ra quyết định xử lý vật chứng của các cơ quan này. Trong khi Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thẩm quyền của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có đề cập đến thẩm quyền xử lý vật chứng, thì Điều 39 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra lại không đề cập đến thẩm quyền này[2]. Đây chính là một thiếu sót dẫn đến thiếu căn cứ pháp lý cho các cơ quan này trong việc áp dụng trên thực tế.

Thứ hai, như đã trình bày ở trên, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền xử lý vật chứng khi đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Tại điểm g khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã đề cập đến thẩm quyền ra quyết định đình chỉ điều tra. Tuy nhiên, Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về “đình chỉ điều tra” thì lại chỉ đưa ra một chủ thể là Cơ quan điều tra mà không đề cập đến các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đây cũng là một điểm chưa thống nhất ngay trong chính các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, gây vướng mắc trong việc áp dụng trên thực tiễn.

Thứ ba, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ có thẩm quyền xử lý vật chứng khi đình chỉ điều tra hoặc đang trong giai đoạn điều tra mà xét thấy cần thiết và không ảnh hưởng đến các quá trình tố tụng tiếp theo. Theo đó, các cơ quan này chưa được giao thẩm quyền xử lý đồ vật, tài liệu trong giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng - là giai đoạn giải quyết các nguồn tin về tội phạm. Trong giai đoạn này, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng phải tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập các tài liệu, đồ vật, chứng cứ nhằm xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Tuy chưa có quyết định khởi tố vụ án nhưng trong nhiều trường hợp, do tính chất của vật chứng, chẳng hạn như, vật chứng là tài sản mau hỏng, khó bảo quản, đòi hỏi phải nhanh chóng xử lý những đồ vật, tài sản đã thu giữ ngay trong quá trình xác minh, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Vì vậy, do chưa có quy định cụ thể nên việc xử lý vật chứng trong giai đoạn giải quyết các nguồn tin về tội phạm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra còn lúng túng, thiếu thống nhất[3]. Nhiều cơ quan có quan điểm là chờ đến khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc khi đưa vụ án ra xét xử thì các cơ quan tiến hành tố tụng ở các giai đoạn tiếp theo sẽ xử lý vật chứng nhưng điều này có thể dẫn đến tình trạng hư hỏng, hao hụt vật chứng hoặc quá tốn kém chi phí bảo quản và như vậy, đi ngược lại với yêu cầu bảo đảm đầy đủ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong xử lý vật chứng.

Thứ tư, đối với vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mới chỉ quy định xử lý bằng cách “bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy”, quy định này chưa nhấn mạnh đến yếu tố cần phải xử lý “ngay” những loại vật chứng này vì tính chất đặc biệt của chúng. Ngoài ra, quy định này cũng không nhắc đến vấn đề giám định vật chứng mau hỏng, khó bảo quản, việc này có thể ảnh hưởng đến quá trình giải quyết, xét xử vụ án sau đó.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, theo tác giả, cần nghiên cứu bổ sung nội dung quy định về việc xử lý vật chứng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và quy định tiến hành trưng cầu giám định, định giá tài sản như một phần của quá trình xử lý vật chứng. Có như vậy, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mới bảo đảm thu thập được hết các thông tin có giá trị của vật chứng, tránh trường hợp trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo các cơ quan tiến hành tố tụng khác yêu cầu thêm thông tin về các tài sản này.

Bên cạnh đó, bổ sung quy định về điều kiện và tính kịp thời trong việc áp dụng hình thức xử lý vật chứng mau hỏng, khó bảo quản bằng biện pháp bán tài sản; bổ sung cụm từ “ngay sau khi có kết luận giám định” vào quy định về vật chứng mau hỏng, khó bảo quản. Việc quy định việc xử lý vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản có thể tham khảo quy định đối với vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai. Cụ thể, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “3. Trong quá trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:... c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì ngay sau khi có kết luận giám định có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy...”.

Ngoài ra, với đặc thù của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là chỉ tham gia vào giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, nên để việc xử lý vật chứng không ảnh hưởng đến các giai đoạn tố tụng tiếp theo thì cần có sự thống nhất về quan điểm xử lý với các cơ quan tố tụng khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Trước khi xử lý, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần tổ chức họp liên ngành với các cơ quan trên, thống nhất quan điểm xử lý vật chứng, lập biên bản cuộc họp đưa vào hồ sơ vụ án. Việc xử lý vật chứng trong trường hợp này phải được ghi nhận trong kết luận điều tra theo quy định tại Điều 233 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ hai, để bảo đảm tính thống nhất giữa các quy định của pháp luật, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng, bổ sung thẩm quyền xử lý vật chứng của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra của các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cụ thể, tác giả kiến nghị sửa đổi điểm d khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “d) Quyết định trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản; quyết định khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan trực tiếp đến vụ án; xử lý vật chứng”.

Thứ ba, bổ sung chủ thể “cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra” vào các chủ thể có thẩm quyền đình chỉ điều tra quy định tại Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để tạo sự thống nhất, bảo đảm hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật. Cụ thể, tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “1. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:...”.

Thứ tư, một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những khó khăn, vướng mắc và sự thiếu thống nhất trong thực tế xử lý vật chứng của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là do thiếu những hướng dẫn cụ thể từ các quy định của pháp luật. Do đó, tác giả kiến nghị, các cơ quan có liên quan như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao sớm ban hành một thông tư liên tịch nhằm hướng dẫn chi tiết về một số trường hợp mang tính điển hình cũng như những trường hợp đặc biệt liên quan đến xử lý vật chứng và thủ tục cụ thể cho từng trường hợp (ví dụ như, quy định cụ thể người có thẩm quyền ra quyết định xử lý vật chứng tại các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra…). Sau khi có thông tư liên tịch hướng dẫn, từng lực lượng Bộ đội biên phòng, lực lượng Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư sẽ căn cứ vào các nội dung có liên quan đến lực lượng mình để xây dựng, ban hành một quy chế, quy trình xử lý vật chứng để triển khai thực hiện thống nhất trong từng lực lượng./.

Trần Ngọc Hải

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Phạm Minh Tuyên (2020), “Giám định, xử lý vật chứng, định giá động vật hoang dã, động vật nguy cấp quý hiếm trong tố tụng hình sự - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/public/index.php/giam-dinh-xu-ly-vat-chung-dinh-gia-dong-vat-hoang-da-dong-vat-nguy-cap-quy-hiem-trong-to-tung-hinh-su-vuong-mac-va-kien-nghi-hoan-thien, truy cập ngày 07/6/2024.

[2]. Nguyễn Thanh Hằng (2022), Xử lý vật chứng theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 60.

[3]. Vũ Thị Quyên (2023), Xử lý vật chứng theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp trường, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 81.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 408), tháng 7/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý trong phòng, chống ma túy

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý trong phòng, chống ma túy

Đây là một trong những mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 163/2024/QH15 ngày 27/11/2024 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030 (Chương trình).
Mở rộng đối tượng trợ giúp pháp lý tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 - Bước tiến về bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Mở rộng đối tượng trợ giúp pháp lý tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 - Bước tiến về bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 8. Một trong những điểm mới nổi bật, thể hiện rõ chính sách bảo vệ quyền con người của Nhà nước ta là việc mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý, bổ sung đối tượng trợ giúp pháp lý đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những người dễ bị tổn thương, tạo niềm tin của người dân về các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.
Trợ giúp pháp lý miễn phí cho người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự

Trợ giúp pháp lý miễn phí cho người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự

Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật Tư pháp người chưa thành niên được Quốc hội XV thông qua tại kỳ họp thứ 8. Luật đã thể chế đầy đủ chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp cũng như đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, yêu cầu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên, nhằm mục đích xử lý phù hợp hơn, nhân văn hơn đối với người chưa thành niên. Luật Tư pháp người chưa thành niên gồm 05 phần, 10 chương với 179 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026.
Một số điểm mới Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025

Một số điểm mới Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025

Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2025 được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 14/6/2025, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2025 và áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025. So với Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 có nhiều điểm mới quan trọng.
Một số điểm cần lưu ý trong Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội

Một số điểm cần lưu ý trong Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội

Một số điểm cần lưu ý trong Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Chủ động quán triệt, truyền thông sâu rộng Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội

Chủ động quán triệt, truyền thông sâu rộng Nghị quyết số 206/2025/QH15 của Quốc hội

Ngày 17/7/2025, Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật Trung ương ban hành Công văn số 4302/HĐPH-PB&TG về việc quán triệt, thông tin, truyền thông về Nghị quyết số 206/2025/QH15 ngày 24/6/2025 của Quốc hội.
Luật Việc làm năm 2025: Đột phá trong hoàn thiện thể chế và phát triển thị trường lao động

Luật Việc làm năm 2025: Đột phá trong hoàn thiện thể chế và phát triển thị trường lao động

Luật Việc làm năm 2025 là thành tựu quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển thị trường lao động, hướng tới bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả người lao động. Luật gồm 8 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026.
Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của trẻ em và người đại diện theo pháp luật

Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của trẻ em và người đại diện theo pháp luật

Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 9. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

.
Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Trong nền hành chính quốc gia Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng trung tâm, giữ vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức đều có ảnh hưởng lớn đến uy tín của nền hành chính quốc gia, không chỉ phản ánh trình độ văn minh, hiện đại của nền hành chính mà còn phản ánh tính ưu việt của thể chế chính trị hiện hành. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” được coi là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị, tạo bước đột phá để đưa đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực - Truyền thống, pháp luật và khát vọng phụng sự Nhân dân

“Dĩ công vi công, chư thần ủng hộ; dĩ công vi tư, chư thần đả tử” - lời thề thiêng liêng vang lên từ Lễ hội Minh Thề ở thôn Hòa Liễu, xã Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng không chỉ là thanh âm của một nghi lễ dân gian, mà còn là tiếng nói đạo lý trị quốc xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đó là tuyên ngôn đạo đức và pháp lý giản dị nhưng đanh thép: Ai vì công được trời đất chứng giám và muôn dân ủng hộ; ai dùng công quyền làm lợi riêng ắt sẽ bị trừng trị. Từ cội nguồn văn hóa ấy, truyền thống đề cao liêm chính, công tâm và kỷ cương pháp luật đã ngấm vào tư tưởng trị quốc, trở thành nền tảng bền vững cho quốc pháp và đạo lý công quyền. Vì vậy, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày nay là sự tiếp nối mạch nguồn lịch sử, một phần không thể tách rời của hành trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, giữ vững kỷ cương và phụng sự Nhân dân bằng đạo lý trong sạch và thể chế vững vàng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Từ ngày 01/7/2025, mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã) chính thức vận hành trên thực tiễn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã (xã, phường, đặc khu) được tăng cường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu chính trị của nước ta trong tình hình mới.
Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Ngày 26/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền riêng tư của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dữ liệu cá nhân ngày càng trở nên quan trọng và đang phải đối mặt với nhiều rủi ro bị đánh cắp, xâm phạm trên môi trường số.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi