Thứ năm 12/06/2025 17:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất

Cơ chế cho phép xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất là một trong các điểm mới nổi bật của Bộ luật Dân sự năm 2015 về phần bảo đảm nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, việc hiểu và vận dụng chuẩn xác quy định này còn khá nhiều quan điểm trái chiều. Bài viết tập trung phân tích và đưa ra luận giải cá nhân đối với quy định cụ thể này.


Quy định về xử lý tài sản gắn liền với đất trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất được xem là một điểm đột phá trong quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về đổi mới cơ chế xử lý đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất. Trước đây, điểm nghẽn của Bộ luật Dân sự năm 2005 là không ghi nhận cơ chế xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nên trong nhiều trường hợp, việc xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất gặp khó khăn. Hiện nay, Điều 325 và Điều 326 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tháo gỡ khó khăn khi xây dựng cơ chế xử lý đồng thời đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, cụ thể trong 02 trường hợp là: Thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và tài sản gắn liền với đất cũng đồng thời thuộc sở hữu của bên thế chấp.

1. Tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp có thuộc tài sản thế chấp?

Khoản 2 Điều 716 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Trường hợp người sử dụng đất thế chấp quyền sử dụng đất thì nhà, công trình xây dựng khác, rừng trồng, vườn cây và các tài sản khác của người thế chấp gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận”. Như vậy, theo góc độ điều chỉnh này thì tài sản gắn liền với đất chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu thỏa mãn 02 điều kiện: (i) Cùng thuộc sở hữu của người thế chấp, cũng đồng thời là người sử dụng đất; (ii) Các bên trong hợp đồng thế chấp có thỏa thuận ghi nhận đối tượng tài sản thế chấp là tài sản gắn liền với đất.

Bộ luật Dân sự năm 2015 có hướng tiếp cận khác so với quy định trước. Cụ thể, khoản 3 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, tài sản gắn liền với đất thuộc tài sản thế chấp khi thỏa mãn 02 điều kiện: (i) Cùng thuộc sở hữu của người thế chấp; (ii) Nếu các bên không có thỏa thuận khác. Cách quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về cơ bản được đánh giá cao vì nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích cho chủ nợ có bảo đảm (bên nhận thế chấp). Bởi lẽ, trong trường hợp bên thế chấp dùng quyền sử dụng đất để thế chấp nhưng không thỏa thuận đi kèm hoặc không đề cập gì đến tài sản gắn liền với đất thì pháp luật quy định tài sản gắn liền với đất, nếu thuộc sở hữu của bên thế chấp, cũng đương nhiên thuộc tài sản thế chấp. Hệ quả là cơ chế xử lý tài sản gắn liền với đất cũng sẽ tương tự như xử lý quyền sử dụng đất.

Tuy nhiên, một điểm vướng mắc mà tác giả băn khoăn là ở cách sử dụng câu chữ. Khoản 3 Điều 318 quy định “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” thì tài sản gắn liền với đất mới không thuộc tài sản thế chấp. Giả sử tình huống, các bên tham gia hợp đồng thế chấp thỏa thuận thế chấp với đối tượng là quyền sử dụng đất; trên đất lại có nhà ở, tuy nhiên, nhà ở này lại chưa được cập nhật biến động trong giấy chứng nhận quyền sở hữu. Nếu tại thời điểm ký hợp đồng thế chấp, đối tượng tài sản thế chấp mà các bên ghi nhận là quyền sử dụng đất dựa theo giấy chứng nhận mà không đề cập đến đối tượng là nhà ở thì nhà ở này có đương nhiên thuộc tài sản thế chấp hay không? Câu trả lời nếu chiếu theo khoản 3 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ là có. Vì điều khoản này quy định chỉ trừ trường hợp có thỏa thuận khác thì nhà ở mới không thuộc tài sản thế chấp. Thỏa thuận khác của các bên được hiểu là thỏa thuận chỉ ghi nhận đối tượng tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và loại trừ đối tượng tài sản thế chấp là nhà ở. Tuy nhiên, bởi cách sử dụng câu chữ lại khiến chúng ta băn khoăn rằng: Nếu các bên biết đến sự tồn tại của nhà ở trên đất nhưng lại không đề cập đến nhà ở này vào hợp đồng thế chấp thì sự không đề cập này của các bên có được coi là đã có “thỏa thuận khác” hay chưa? Hoặc giả sử “nếu dùng quyền sử dụng đất của bên thứ ba để thế chấp, một thời gian sau khi xác lập hợp đồng thế chấp thì bên thế chấp xây dựng nhà cửa, biệt thự trên đó và khi phải xử lý thì bên thế chấp phản đối bởi họ chỉ thế chấp quyền sử dụng đất chứ không thế chấp nhà cửa, biệt thự trên đất”[1].

Hiển nhiên, dưới góc độ của nội dung hợp đồng thế chấp, điều khoản về đối tượng tài sản thế chấp phải được liệt kê rõ. Tuy nhiên, theo tác giả, để tránh nhầm lẫn, gây tranh cãi không cần thiết thì điều luật nên theo hướng đòi hỏi sự ghi nhận một cách rõ ràng, chi tiết đối với đối tượng tài sản thế chấp. Theo đó, tác giả kiến nghị nên sửa đổi khoản 3 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng: “… trừ trường hợp các bên trong hợp đồng thế chấp ghi nhận đối tượng thế chấp chỉ là quyền sử dụng đất”. Việc ghi nhận minh thị đối tượng tài sản thế chấp sẽ là cơ sở để giải quyết tranh chấp giữa đôi bên trong quan hệ thế chấp.

2. Xử lý tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất

Bàn về vấn đề xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi cùng thuộc sở hữu của bên thế chấp, có quan điểm cho rằng: Chúng ta thấy, khoản 3 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã khẳng định “tài sản gắn liền với đất cũng là tài sản thế chấp” nhưng tại sao khoản 1 Điều 325 Bộ luật này vẫn khẳng định “trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất”, tức là, điều khoản thứ nhất đã “nhập” tài sản trên đất thành “tài sản thế chấp” rồi nhưng tại sao điều khoản sau lại “tách” tài sản trên đất ra khỏi “quyền sử dụng đất”, đối tượng của hợp đồng thế chấp?[2]. Từ đó, tác giả băn khoăn về quy định giữa khoản 3 Điều 318 và khoản 1 Điều 325 nêu trên là không có sự nhất quán?

Theo quan điểm của tác giả, phạm vi điều chỉnh của khoản 3 Điều 318 và khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 là không giống nhau. Vì vậy, không có cơ sở để khẳng định rằng, 02 điều luật này không có sự nhất quán với nhau. Điều 318 có tên gọi là “Tài sản thế chấp”, theo đó, nhà làm luật đang mô tả về tài sản thế chấp. Khoản 3 Điều 318 quy định theo hướng áp dụng nguyên tắc mặc định đối với tài sản thế chấp: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Nghĩa là, nếu các bên không thỏa thuận một cách rõ ràng, chi tiết, minh thị về đối tượng tài sản thế chấp khi thế chấp quyền sử dụng đất thì mặc nhiên, trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản và tài sản này cũng thuộc sở hữu của bên thế chấp thì tài sản này cũng thuộc tài sản thế chấp. Còn hướng dẫn tại Điều 325 là về cơ chế xử lý đồng thời đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp kèm theo tài sản gắn liền với đất. Điều 325 chỉ đưa ra cơ chế xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, chứ không đề cập đến tài sản thế chấp cụ thể là tài sản nào và xử lý số tiền thu được từ tài sản thế chấp này như thế nào.

Ví dụ:

Tình huống 1: A (bên thế chấp) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thế chấp quyền sử dụng đất cho B (bên nhận thế chấp). Trên đất còn có nhà ở (có thể có hoặc không có giấy chứng nhận) nhưng các bên chỉ thỏa thuận thế chấp đối với quyền sử dụng đất, không thế chấp nhà ở và ghi nhận rõ nội dung này vào hợp đồng thế chấp. Như vậy, đối tượng tài sản thế chấp trong trường hợp này chỉ là quyền sử dụng đất. Giả sử, trong trường hợp cần phải xử lý tài sản thế chấp thì trong trường hợp này, bởi vì quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nếu tách riêng rất khó xử lý nên cho phép xử lý đồng thời đối với cả 02 loại tài sản. Tuy nhiên, việc xử lý số tiền thu được là hoàn toàn khác nhau. Bởi lẽ, trường hợp nếu cùng là tài sản thế chấp thì số tiền thu được sau khi xử lý quyền sử dụng đất và nhà ở, đương nhiên được ưu tiên thanh toán cho B, nhưng trong tình huống này, vì nhà ở không phải là tài sản thế chấp nên số tiền thu được sau khi xử lý nhà ở phải trả về cho chủ sở hữu (A).

Tình huống 2: Giả sử A (bên thế chấp) thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có nhà ở (có hoặc không có giấy chứng nhận) nhưng các bên không đề cập đến đối tượng tài sản này một cách rõ ràng, ghi nhận chung là thế chấp quyền sử dụng đất. Giả sử, trong trường hợp cần phải xử lý tài sản thế chấp, thì trong tình huống này, cả quyền sử dụng đất và cả tài sản gắn liền với đất đều đã mặc nhiên là tài sản thế chấp. Do đó, khi xử lý tài sản thế chấp, hiển nhiên không áp dụng Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụm từ “mà không thế chấp” đã tương thích với trường hợp các bên có thỏa thuận khác theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 318 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, số tiền thu được từ việc xử lý quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (với tư cách cùng là tài sản thế chấp) được ưu tiên thanh toán cho B (bên nhận thế chấp).

Như vậy, nội dung của khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã nêu ra cơ chế xử lý đồng thời đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất. Tức là khoản 1 Điều 325 đã loại trừ trường hợp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cùng thuộc tài sản thế chấp (phù hợp với cách quy định của khoản 1 Điều 318). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 325 lại chưa đề cập đến việc xử lý số tiền thu được từ việc xử lý đồng thời 02 loại tài sản này (vừa có tài sản thế chấp, vừa có tài sản không phải tài sản thế chấp). Về vấn đề này, trước đây, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã có đề cập đến việc xử lý đồng thời quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Cụ thể, khoản 19 Điều 1 Nghị định này nêu rõ: Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Số tiền thu được từ việc xử lý “tài sản bảo đảm” được thanh toán trước cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quy định này đã có đề cập đến xử lý số tiền thu được từ tài sản bảo đảm, tuy nhiên, Nghị định lại chưa cho biết tài sản bảo đảm trong trường hợp này có đồng thời là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hay không? Mặt khác, quy định này làm chúng ta cảm thấy hoang mang vì theo đó thì số tiền thu được từ tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, chứ không phải ưu tiên thanh toán cho bên nhận bảo đảm.

Bàn về cách diễn đạt của khoản 3 Điều 318 và khoản 1 Điều 325 của Bộ luật Dân sự năm 2015, có quan đểm cho rằng sẽ dẫn đến nguy cơ “người nhận thế chấp sẽ khai thác khoản 3 Điều 318 để đòi hỏi được ưu tiên cả đối với khoản tiền thu được từ xử lý tài sản trên đất và như vậy là trái với nguyên tắc bình đẳng được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự”[3], theo tác giả, quan điểm này là chưa phù hợp và đi ngược lại với tinh thần đổi mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 về bảo vệ quyền lợi cho bên nhận thế chấp quyền sử dụng đất. Bởi lẽ, nếu khai thác khoản 3 Điều 318 thì cả quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đều là tài sản thế chấp. Cho nên bên nhận thế chấp đòi hỏi được ưu tiên thanh toán đối với số tiền thu được từ cả 02 loại tài sản này là điều hoàn toàn hợp lý. Hiển nhiên, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (như đã phân tích ở trên).

Mặt khác, cách quy định xử lý đồng thời của khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ trong trường hợp 02 đối tượng tài sản này không cùng là tài sản thế chấp. Theo đó, quyền sử dụng đất là tài sản thế chấp, còn tài sản gắn liền với đất không phải là tài sản thế chấp. Có ý kiến cho rằng, cần thống nhất về mặt nhận thức, việc xử lý đồng thời tài sản gắn liền với đất (trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất) hoặc quyền sử dụng đất (trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất) nhằm tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo đảm chứ không đồng nghĩa với việc nó là căn cứ để xác định tài sản được xử lý đồng thời với tài sản thế chấp cũng trở thành tài sản thế chấp; theo đó, trên nguyên tắc, tài sản được xử lý đồng thời không phải là tài sản thế chấp, nên khoản tiền thu được từ việc bán tài sản này sẽ chỉ được thanh toán cho bên nhận thế chấp trong trường hợp các bên có thỏa thuận và việc thanh toán sẽ phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Theo quan điểm của tác giả, để tránh cách nhìn khác nhau liên quan đến khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cần có văn bản giải thích rõ nội hàm của điều khoản này. Tác giả đề xuất giải thích khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng: “Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Số tiền thu được từ việc xử lý quyền sử dụng đất được ưu tiên thanh toán cho chủ nợ có bảo đảm (bên nhận thế chấp). Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản gắn liền với đất được trả lại cho chủ sở hữu tài sản (bên thế chấp)”.

ThS. Nguyễn Thị Hoàng Yến
Trường Đại học Thủ Dầu Một


[1] Trần Minh Hải, Hiểu nghề giữ nghiệp - 26 bài học pháp lý nghiệp vụ dành cho nghề tín dụng ngân hàng, Nxb. Lao động, 2015, Hồ Chí Minh, tr. 217.

[2] Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ - Bản án và bình luận bản án, tập 2 (sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 121.

[3] Đỗ Văn Đại (2017), Luật nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ - Bản án và bình luận bản án, tập 2 (sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba), Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr. 122.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm