Thứ bảy 21/06/2025 14:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về thực trạng áp dụng pháp luật trong trường hợp không thu phí thi hành án

Bài viết bàn về thực trạng áp dụng pháp luật trong trường hợp không thu phí thi hành án, từ đó, tác giả đưa ra quan điểm cá nhân nhằm đảm bảo tính thống nhất về áp dụng pháp luật trong trường hợp này.


Xét về bản chất, phí là khoản tiền để bù đắp một phần chi phí về đầu tư, quản lý và các mặt khác của tổ chức, cá nhân đã cung cấp dịch vụ của mình cho người được thụ hưởng lợi ích từ dịch vụ đó. Trong lĩnh vực công, phí là khoản phải thu của Nhà nước để đóng góp một phần trong duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước và đóng góp vào ngân sách quốc gia. ở phạm vi của thi hành án dân sự, Điều 60 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) cũng quy định, người được thi hành án phải có trách nhiệm nộp phí thi hành án, theo đó, phí thi hành án là khoản tiền mà người được thi hành án phải nộp khi được nhận tiền, tài sản hay các lợi ích vật chất khác do cơ quan thi hành án dân sự thu được của người phải thi hành án… Tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật quy định người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án mặc dù được nhận tiền, tài sản hay các lợi ích vật chất khác từ người phải thi hành án (theo Điều 6 Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính về quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự - Thông tư số 216/2016/TT-BTC). Trong đó, đáng chú ý là quy định tại khoản 8 Điều này: “…Tiền, tài sản mà đương sự tự nguyện thi hành trong thời hạn tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự”.

Theo quy định này, pháp luật ràng buộc rất cụ thể sự tự nguyện có điều kiện của đương sự, đó là tự nguyện thi hành nhưng phải trong thời hạn tự nguyện thi hành án. Tức là, dù người phải thi hành án có tự nguyện nhưng không thuộc khoảng thời gian này thì người được thi hành án khi nhận được tiền, tài sản hay các lợi ích vật chất khác mà người phải thi hành án đã tự nguyện nộp cho cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải chịu phí thi hành án.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014): “Thời hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án”. Như vậy, từ ngày đầu tiên cho đến hết ngày thứ mười kể từ khi nhận được hay được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, nếu người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình thì được coi là tự nguyện thi hành án, ngoài thời hạn đó tính tự nguyện không được pháp luật thừa nhận.

Từ các quy định trên, có thể khẳng định rằng, người được thi hành án không phải chịu phí thi hành án chỉ khi người phải thi hành án tự nguyện thi hành trong thời hạn tự nguyện thi hành án. Mặc dù pháp luật quy định khá cụ thể, nhưng quá trình áp dụng trên thực tế vẫn còn tồn tại các quan điểm khác nhau dẫn đến cách áp dụng pháp luật khác nhau và trở thành “lỗ hổng” để vi phạm.

Trong đó, có quan điểm cho rằng, việc người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ trước khi có quyết định thi hành án là tự nguyện thi hành án và khi chi trả số tiền này thì người được thi hành án không phải chịu phí. Khi giải thích, những người có quan điểm này lập luận rằng, pháp luật đã quy định không thu phí của người được thi hành án trong thời hạn tự nguyện thi hành án thì khi người phải thi hành án hay các cá nhân, tổ chức khác đã thi hành thay cho người phải thi hành án trước thời hạn đó thì họ đã thể hiện ý chí tự nguyện thi hành, cho nên xem đây là trường không phải chịu phí thi hành án của người được thi hành án, đồng nghĩa với việc cơ quan thi hành án không được thu phí trong trường hợp này. Theo tác giả, quan điểm và cách lập luận trong áp dụng pháp luật nêu trên chưa đúng, bởi lẽ:

Thứ nhất, quan điểm này đã tự cho phép cơ quan thi hành án mở rộng giới hạn không chịu phí thi hành án mà không dựa trên bất kỳ căn cứ pháp lý nào ngoài suy luận mang tính chất chủ quan. Về kỹ thuật lập pháp, nếu pháp luật được xây dựng theo lập luận của quan điểm trên thì tại sao khoản 8 không quy định cụ thể thành văn như: “Tiền, tài sản mà đương sự tự nguyện thi hành trừ trường hợp thi hành sau thời hạn tự nguyện thi hành án theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự”, mà lại khống chế trong thời hạn tự nguyện thi hành án?. Đó chính là mục đích mang tính dự báo, loại trừ tiêu cực, chồng chéo lợi ích, đảm bảo tính khả thi của khoản 8 khi áp dụng trong thực tiễn.

Thứ hai, xét về chủ thể, người phải thi hành án và người được thi hành án là hai chủ thể khác nhau trong mối quan hệ với phí thi hành án. Như đã đề cập ở trên, phí thi hành án là trách nhiệm của người được thi hành án đối với cơ quan thi hành án dân sự - nơi đem lại lợi ích cho người được thi hành án; hay nói cách khác, đó là trách nhiệm đối với Nhà nước của người được thi hành. Đối với người phải thi hành án, họ có thi hành trước, trong hay sau thời hạn tự nguyện thi hành án thì lợi ích của họ vẫn không thay đổi trong mối quan hệ với trách nhiệm chịu phí thi hành án của người được thi hành án. Theo quy luật, khi một người tự nguyện, tự giác thi hành một điều gì đó có lợi cho tổ chức, cá nhân, xã hội thì họ phải được lợi ích nhất định từ việc tự nguyện, tự giác đó, nhưng nếu lập luận theo quan điểm trên thì câu hỏi đặt ra là, tại sao lợi ích lại thuộc về người được thi hành án (không phải chịu phí) mà không phải là người phải thi hành án? Có lẽ, quan điểm này đã có phần nhầm lẫn đối tượng thụ hưởng này (người được thi hành án) với tính chất tự nguyện của đối tượng kia (người phải thi hành án).

Theo tác giả, mục đích của khoản 8 là để đảm bảo lợi ích của người được thi hành án tương đồng với lợi ích của người phải thi hành án. Bởi lẽ, pháp luật quy định khoảng thời gian tự nguyện thi hành án đối với người phải thi hành án là thực hiện chính sách khoan hồng trong thực hiện quyền của họ, đồng thời không thu phí cũng nhằm đảm bảo lợi ích của người được thi hành án vốn đã có nhiều mâu thuẫn với người phải thi hành án trong suốt quá trình giải quyết vụ án trước đó. Bên cạnh đó, đây cũng là khoảng thời gian pháp luật mặc định không phát sinh các hoạt động mang tính dịch vụ của cơ quan thi hành án. Do vậy, để đảm bảo thống nhất về lợi ích của người được thi hành án, người phải thi hành án và Nhà nước trong liên quan đến phí thi hành án, pháp luật đã quy định “trong thời hạn tự nguyện thi hành án” là giới hạn chung để bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên để không phát sinh mâu thuẫn, tiêu cực, chồng lấn quyền lợi.

Thứ ba, sự xung đột về lợi ích giữa người được thi hành án và người phải thi hành án với việc một bên luôn muốn nhận tiền, tài sản... nhưng không muốn chịu phí với một bên phải thi hành nghĩa vụ nhưng giảm được phần nào tốt phần đó, thì điểm chung duy nhất về lợi ích trong mối quan hệ với phí thi hành án đó là chia sẻ trách nhiệm chịu phí thi hành án là mục đích hướng đến của hai bên. Bằng phương thức này, các đương sự tìm mọi cách để cụ thể hóa mục đích chung đó với việc sẵn sàng bắt tay, thỏa hiệp với nhau để đạt được lợi ích tốt nhất và giảm khoản phải chi của mỗi bên. Thay vì phải nộp phí cho cơ quan thi hành án dân sự thì đương sự có thể thỏa thuận tự nguyện thi hành trước thời hạn tự nguyện thi hành án để chia phần phí lẽ ra theo pháp luật phải thuộc về Nhà nước. Đó chính là “kẽ hở” lớn nhất của quan điểm nêu trên, chưa kể đến sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận nhỏ chấp hành viên đã lợi dụng “kẽ hở” này để tham gia chia phần trong số phí thi hành án này.

Ví dụ: Theo quyết định của bản án hình sự số (M), người phải thi hành án (A) phải thi hành nghĩa vụ bồi thường số tiền (n) đồng cho người được thi hành án (B). Bản án này có hiệu lực pháp luật và chấp hành viên (C) được phân công giải quyết phần chủ động của bản án, qua đó, đã phát hiện ngoài nghĩa vụ thi hành án phí hình sự, án phí dân sự thì A còn có nghĩa vụ bồi thường số tiền như trên. Lợi dụng “kẽ hở” trong quan điểm áp dụng pháp luật của cơ quan thi hành án dân sự đang công tác) đã liên hệ với A và B và trao đổi như sau: A phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho B số tiền (n) đồng, nếu A thi hành trong thời gian tự nguyện thi hành án thì A và B sẽ không có lợi ích chung gì, còn nếu thi hành khi hết thời gian tự nguyện thi hành án thì B mất phí 1 tỷ đồng cho cơ quan thi hành án mà A cũng không có lợi ích gì. Do đó, C đề nghị, A tự nguyện thi hành nghĩa vụ bồi thường cho B thông qua cơ quan thi hành án; sau khi đã có biên lai thu tiền của cơ quan thi hành án, B làm đơn yêu cầu thi hành án để không mất phí 1 tỷ đồng, số tiền này thay vì nộp cho cơ quan thi hành án thì B chỉ nộp 400 triệu cho A, 100 triệu cho C, còn 500 triệu B hưởng. Như vậy, với quan điểm trên, pháp luật đã chứng minh đó là “kẽ hở” để A, B, C lợi dụng, bắt tay nhau chiếm đoạt số tiền phí.

Tóm lại, khoản 8 Điều 6 Thông tư số 216/2016/TT-BTC đã quy định rất cụ thể, đảm bảo tính thống nhất, hài hòa quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự và Nhà nước trong hoạt động thu hay không thu phí thi hành án dân sự. Vì vậy, đòi hỏi người áp dụng pháp luật cần có nhận thức đúng về ý nghĩa, mục đích của quy định này để tránh sai lầm và tạo điều kiện cho các hành vi vi phạm pháp luật nảy sinh, đồng thời, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.

Thiếu tá Nguyễn Minh Trường

Phòng Thi hành án Quân khu 7

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm