Thứ năm 19/06/2025 12:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng

Bài viết đề cập đến các quy định pháp luật về Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời phân tích một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn xác định tội phạm này, từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật có liên quan.

1. Quy định pháp luật về Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng

Luật Đầu tư công năm 2019 được ban hành góp phần thống nhất nguồn vốn đầu tư công; tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện đầu tư công; đẩy mạnh phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương trong quá trình thực hiện đầu tư công; tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công; đồng thời, Luật Đầu tư công năm 2019 gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu lại đầu tư công theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước. Trong đó, tại Điều 16 Luật Đầu tư công năm 2019 đã quy định cụ thể 12 nhóm hành vi bị nghiêm cấm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cụ thể, trong đó có Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng.

Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) quy định Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng như sau:

“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong những hành vi sau đây gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 224 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a. Vi phạm quy định về quyết định chủ trương đầu tư; b. Vi phạm quy định về lập, thẩm định chủ trương đầu tư; c. Vi phạm quy định về quyết định đầu tư chương trình, dự án; d. Vi phạm quy định về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án.

2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm: a. Vì vụ lợi; b. Có tổ chức; c. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt; d. Gây thiệt hại từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.

3. Phạm tội gây thiệt hại 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao trong quản lý và sử dụng tài sản công cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quyết định chủ trương đầu tư; về lập, thẩm định chủ trương đầu tư; về quyết định đầu tư chương trình, dự án; về tư vấn, thiết kế chương trình, dự án gây hậu quả nghiêm trọng. Tội phạm này là một trong các tội phạm cụ thể được tách ra từ tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999, là một trong số các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ tội danh này và quy định một số tội danh khác tương ứng với hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, cụ thể là các tội sau: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219); Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221); Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); Tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223); Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224); Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230).

2. Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn xác định tội phạm vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng

Một là, còn có sự chồng lấn giữa cấu thành tội phạm vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng với một số tội phạm khác được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Có sự chồng lấn với cấu thành tội phạm của một số tội như: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219); Tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224)… Ví dụ: Đối với Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219), người có chức vụ, quyền hạn được giao quản lý, sử dụng tài sản nhà nước mà vi phạm chế độ quản lý, sử dụng tài sản, gây thất thoát, lãng phí từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị coi là phạm tội; hoặc, đối với Tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 224), người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực đầu tư xây dựng (như quyết định đầu tư xây dựng không đúng quy định của Luật Xây dựng; lập, thẩm định, phê duyệt thiết kế, dự toán, điều chỉnh dự toán, nghiệm thu công trình sử dụng vốn của Nhà nước trái với quy định của Luật Xây dựng; lựa chọn nhà thầu không đủ điều kiện năng lực để thực hiện hoạt động xây dựng; dàn xếp, thông đồng làm sai lệch kết quả lập dự án, khảo sát, thiết kế, giám sát thi công, xây dựng công trình) gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị coi là phạm tội.

Như vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng có nhiều điểm giống với cấu thành tội phạm của các tội nêu trên như đều liên quan đến lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, nếu làm trái trong lĩnh vực quản lý khác nhau như xây dựng tài sản công hoặc trong đầu tư công thì việc xem xét trách nhiệm pháp lý cũng khác nhau.

- Có sự chồng lấn với cấu thành tội phạm của các tội có dấu hiệu tham nhũng trong lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn nhà nước, trong đó, có các tội: Tội tham ô tài sản (Điều 353); Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356); Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355); Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360); Tội nhận hối lộ (Điều 354)… Ví dụ: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 356) quy định, người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Như vậy, cấu thành tội phạm vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng cũng có nhiều nét tương đồng đối với nhóm tội tham nhũng liên quan đến lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn nhà nước. Đối với nhóm tội tham nhũng thì vụ lợi là dấu hiệu định tội còn trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật trong đầu tư công gây thiệt hại nghiêm trọng cho Nhà nước nhằm vụ lợi thì không phạm tội tham nhũng. Theo đó, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái với chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm thu lợi bất chính như nhằm thu tiền, tài sản, trốn tránh bồi thường thiệt hại hoặc nhằm trả thù, trả ơn hay vì tình cảm cá nhân khác…, còn tội phạm về tham nhũng được thực hiện với mục đích vụ lợi. Vụ lợi được hiểu là mưu cầu lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho bản thân. Lợi ích mà người thực hiện hành vi phạm tội về tham nhũng có thể nhận được như hệ quả trực tiếp của việc thực hiện hành vi tham nhũng như tiền chiếm đoạt từ tham ô tài sản, nhận hối lộ, hưởng lợi từ lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ... hoặc là hệ quả gián tiếp từ việc thực hiện hành vi tham nhũng như làm theo sự chỉ đạo trái pháp luật của cấp trên để được cấp trên xem xét, cất nhắc...

Hai là, còn các quan điểm khác nhau, chưa thống nhất liên quan đến yếu tố lỗi của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng.

Một số quan điểm cho rằng, lỗi của tội phạm này là lỗi vô ý. Theo cách hiểu của tên gọi tội phạm này thì “vi phạm quy định” là điều kiện cần, là cơ sở xác định hình thức trái pháp luật, còn để xác định hành vi có dấu hiệu tội phạm hay không thì hành vi đó phải “gây hậu quả nghiêm trọng”. Theo đó, người phạm tội không nhận biết được và không mong muốn gây ra hậu quả, thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, do đó, lỗi của họ là vô ý. Mặt khác, đây là dấu hiệu cơ bản xác định bản chất của hành vi vi phạm, có tính chất quyết định đến cấu thành tội phạm nên cần phải nhận thức rằng, tội phạm này là tội phạm do lỗi vô ý.

Một số quan điểm khác lại cho rằng, người phạm tội này có lỗi trực tiếp, lỗi cố ý. Mặc dù cách mô tả về hành vi phạm tội trong các điều luật của Bộ luật Hình sự năm 2015 nêu trên bỏ cụm từ “cố ý làm trái quy định...” và thay bằng cụm từ “vi phạm quy định…” nhưng dấu hiệu về thái độ tâm lý của người phạm tội trong các tội này so với tội phạm được quy định tại Điều 165 Bộ luật Hình sự năm 1999 không thay đổi. Nghĩa là, người phạm tội đều biết hành vi của mình là trái pháp luật, vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.

Bên cạnh đó, động cơ và mục đích phạm tội chưa được thể hiện thống nhất ngay trong nội dung của Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, động cơ, mục đích không được nêu trong cấu thành cơ bản của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong cấu thành tăng nặng tại khoản 2 Điều này, người phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi và khi xác định tội phạm này không cần chứng minh người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định trong đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng vì động cơ mục đích gì.

Ba là, tên của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng chưa phù hợp với nội dung của cấu thành cơ bản.

Nghiên cứu Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho thấy, quy định về tên của Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng còn có sai sót về kỹ thuật. Tên của tội danh này thể hiện rằng đây là tội phạm có cấu thành vật chất vì có gắn với cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng”. Với quy định như vậy thì về kỹ thuật lập pháp, khi xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản, đáng lẽ nhà làm luật phải thể hiện được đây là tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, đó là “hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu tên của tội với dấu hiệu định tội thì sẽ nhận thấy có sự mâu thuẫn. Nhà làm luật quy định về dấu hiệu định tội của tội này đã đưa ra hai trường hợp: (i) Gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng; (ii) Tuy gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Điều này có nghĩa, chỉ có trường hợp gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng mới được xác định là cấu thành tội phạm vật chất vì có gây ra hậu quả nghiêm trọng là “gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng”. Trường hợp còn lại thì không phải là cấu thành vật chất; trường hợp này không thể coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” như tên tội đã mô tả, vì hậu quả ở dưới “ngưỡng” 100.000.000 đồng và trường hợp này sở dĩ bị coi là tội phạm bởi vì có thỏa mãn kèm theo đặc điểm xấu về nhân thân - “đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.

Ví dụ: Người phạm tội tuy gây thiệt hại về tài sản là 05 triệu đồng nhưng trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm thì vẫn bị coi là phạm tội này chứ không phải là người đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, với việc gây ra thiệt hại là 05 triệu đồng thì không thể coi là thiệt hại nghiêm trọng được. Như vậy, có thể thấy, quy định của Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015 như trên đã dẫn đến sự mâu thuẫn giữa tội danh với dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cơ bản, chưa bảo đảm chính xác về khoa học.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, đối với cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015, về cơ sở lỗi của tội phạm là cơ sở xác định trách nhiệm của người có chức vụ, quyền hạn trong xử lý các hành vi quy định với tội phạm cần phải thống nhất và quy định rõ là thực hiện với lỗi cố ý hay trong trường hợp do nhận thức không rõ của người có chức vụ, quyền hạn mà ra các quyết định không đúng quy định của pháp luật. Để từ đó, xác định trách nhiệm pháp lý của người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư công sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chỉ bị kỷ luật, xử lý hành chính… tùy thuộc vào hậu quả, thiệt hại gây ra.

Thứ hai, theo tác giả, nên đưa Tội vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng vào nhóm tội tham nhũng. Bởi, đối với nhóm tội tham nhũng, vụ lợi là dấu hiệu định tội. Tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015, các đối tượng cũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật trong đầu tư công gây thiệt hại nghiêm trọng cho Nhà nước nhằm vụ lợi. Vụ lợi được hiểu là người lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi trái với chức năng, nhiệm vụ được giao nhằm thu lợi bất chính như thu tiền, tài sản, trốn tránh bồi thường thiệt hại hoặc nhằm trả thù, trả ơn hay vì tình cảm cá nhân khác…

Thứ ba, vấn đề nhận thức về dấu hiệu lỗi của tội phạm, theo quan điểm của tác giả, tội phạm vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng thực hiện với hình thức “lỗi cố ý trực tiếp” là có cơ sở. Bởi vì, trong cách mô tả cấu thành cơ bản tại khoản 1 của Điều luật này có nêu: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện...”, chính dấu hiệu lợi dụng đã thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội trong nhận thức và thái độ trong thực hiện hành vi trong hoạt động quản lý và sử dụng vốn đầu tư công theo chức trách, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền Nhà nước giao. Từ sự nhận thức đã tác động tới thái độ của người có chức vụ, quyền hạn và hành vi vi phạm quy định của pháp luật về sử dụng và quản lý vốn nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công. Do vậy, trong cấu thành tội phạm này không cần sử dụng cụm từ “cố ý làm trái” như một số quan điểm đã nêu ở phần trên.

Thứ tư, về động cơ và mục đích phạm tội, trong Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015, động cơ và mục đích không được nêu lên trong cấu thành cơ bản của tội phạm. Tuy nhiên, trong cấu thành tăng nặng tại khoản 2 của Điều này có nêu rõ, người phạm tội xuất phát từ động cơ vụ lợi, như vậy là chưa có sự thống nhất. Vì vậy, cần phải đề cập đến động cơ, mục đích phạm tội trong cấu thành cơ bản của tội phạm để phù hợp về cấu trúc và bản chất của hành vi phạm tội.

Thứ năm, như đã phân tích ở trên, tên của tội được quy định tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015 thể hiện rằng, đây là tội phạm có cấu thành vật chất vì có cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, dấu hiệu định tội ở trường hợp thứ hai là “gây thiệt hại dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”, thì dấu hiệu định tội ở trường hợp này không phải là cấu thành tội phạm vật chất. Vì vậy, cần xem xét bỏ cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” ở tên tội để phù hợp giữa tội danh với dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm cơ bản.

ThS. Nguyễn Văn Hùng

Đại học Cảnh sát nhân dân

Tài liệu tham khảo:

1. Học viện Cảnh sát nhân dân (2005), Giáo trình Luật Hình sự (phần chung), Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Phương Hoa & Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Trần Minh Hưởng và tập thể tác giả (2014), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung), Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 392), tháng 11/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm