Thứ năm 16/10/2025 02:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về việc có trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng án treo hay không theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục”, thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; nhưng nếu áp dụng không đúng thì sẽ gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt như: không phát huy được tác dụng tích cực của án treo là khuyến khích người bị kết án tự cải tạo để trở thành người tốt, không thể hiện được tính công minh của pháp luật, không được nhân dân đồng tình ủng hộ, không đề cao được tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Chính vì vậy, án treo là một chế định có ý nghĩa quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam, xoay quanh vấn đề án treo hiện nay còn có nhiều quan điểm tranh luận không có hồi kết như bản chất án treo có phải là một loại hình phạt không? có trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng án t


1. Khái niệm và đặc điểm của án treo

Án treo là một chế định pháp lý hình sự được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trước năm 1986 chưa có một khái niệm thống nhất về án treo mà án treo được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau như: Tại Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 về tổ chức các Toà án quân sự, án treo được hiểu là tạm đình chỉ thi hành án: “Khi phạt tù Tòa có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình việc thi hành. Nếu trong 05 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có. Nếu trong 05 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước một Tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành”[1].

Thông tư số 2308/NCPL ngày 01/12/1961 coi án treo là biện pháp hoãn hình có điều kiện: “Án treo là một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không thực cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh cáo họ còn nếu tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách thì tùy trường hợp sẽ buộc chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết, ngược lại nếu trong thời gian thử thách họ không phạm tội gì mới, án treo sẽ được xóa bỏ”. Thậm chí có thời kỳ án treo được coi là hình thức xử lý nhẹ hơn hình phạt tù giam theo Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao: “So sánh hậu quả phổ biến về mặt pháp lý cũng như hậu quả về mọi mặt khác của án tù giam và án tù treo (người bị án treo không bị cách lý khỏi xã hội, vẫn sống trong môi trường bình thường hàng ngày của họ mà cũng không bị hạn chế gì, tất cả các quyền lợi của người công dân, người bị án treo đều được hưởng, nếu họ là công dân viên chức, họ không bị buộc thôi việc, họ cũng chỉ bị án tích trong thời gian thử thách 05 năm) thì án treo phải được xem là hình thức giảm nhẹ hơn tù giam. Như, vẫn chuyển án tù treo sang án tù giam nặng thời gian ngắn hơn cũng là tăng nặng hình phạt. Ngược lại, chuyển án tù giam sang án tù treo dù thời gian dài hơn cũng là giảm nhẹ hình phạt”. Theo sự hướng dẫn này, án treo không đồng nghĩa là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự, mà án treo chỉ được coi là một hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam. Mặc dù, án treo được hiểu với các tên gọi khác nhau nhưng qua các quy định trên án treo được áp dụng như một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Từ năm 1986 đến nay, án treo được quy định rõ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện[2]. Khái niệm về án treo được quy định rõ tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo đó: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”[3]. Từ khái niệm trên, về bản chất án treo có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Thứ hai, án treo thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta“trừng trị kết hợp với giáo dục. Do đó, trong bản án Tòa án tuyên cho bị cáo một mức án (loại hình phạt tù có thời hạn) tương xứng với tính chất, mức độ hình vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà được cải tạo tại cộng đồng xã hội nơi bị cáo công tác hoặc sinh sống trong thời gian chấp hành án đồng thời chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi cư trú.

Thứ ba, người được hưởng án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù đã tuyên, nhưng không được dưới 01 năm và không được quá 05 năm.

Thứ tư, trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.

Thứ năm, án treo không phải là hình phạt trong hệ thống các hình phạt quy định trong Bộ luật Hình sự. Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định 7 loại hình phạt chính: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình và 7 loại hình bổ sung là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính. Trong số 14 loại hình phạt được quy định hoàn toàn không có án treo, điều này có nghĩa là án treo không phải là hình phạt.

2. Quan điểm có trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng án treo hay không theo quy định của Bộ luật Hình sự

Việc trừ hay không trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng án treo đối với người phạm tội là vấn đề còn đang tranh luận ở cả mặt lý luận và thực tiễn, trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ nêu hai quan điểm chính, cũng như phân tích căn cứ áp dụng của từng quan điểm, trên cơ sở các quy định của pháp luật để đưa quan điểm chính xác nhất trong việc áp dụng án treo đối người phạm tội.

Quan điểm thứ nhất, thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo dựa trên căn cứ quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 và Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Quan điểm này, cho rằng thời hạn tạm giữ, tạm giam chỉ được trừ trong trường hợp: “trong thời gian thử thách nếu họ phạm tội mới hoặc vi phạm nghĩa vụ buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo thì khi giải quyết Tòa án trừ thời gian họ đã bị tạm giữ, tạm giam này vào bản án đã cho hưởng án treo hoặc bản án mới”[4]. Ngoài trường hợp trên, thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo vì án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện chứ không phải hình phạt. Do đó, không thể áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 tù có thời hạn để trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Quan điểm thứ hai, thời gian tạm giữ, tạm giam phải được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo căn cứ vào quy định khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự tù có thời hạn quy định thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Ở khía cạnh nào đó, quan điểm này đã bảo vệ quyền lợi đối với các trường hợp người chấp hành hình phạt tù nhưng cho hướng án treo chấp hành tốt, nhưng không được trừ đi thời hạn đã bị tạm giữ, tạm giam trước đó, so sánh với trường hợp bị cáo bị áp dụng hình phạt tù, cải tạo không giam giữ hay bị cáo buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo đều được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam là không công bằng.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi lẽ, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện chứ không phải là một loại hình phạt như cải tạo không giam giữ tại Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 hay tù có thời hạn tại Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, trường hợp bị cáo buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 tức là bị cáo không được hưởng án treo nữa nếu họ đã bị tạm giam, tạm giữ thì thời hạn bị tạm giam, tạm giữ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù là phù hợp theo khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, khi xác định có hay không việc trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam cần căn cứ vào Điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP. Hơn nữa, về thời gian thử thách án treo tại khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 4 của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP quy định: “Khi cho người phạm tội hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không dưới 01 năm và không được quá 05 năm”. Trong nhiều trường hợp khi áp dụng án treo đối với người phạm tội việc trừ thời hạn bị tạm giam, tạm giữ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo sẽ không đảm bảo thời hạn thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù. Như vậy, không trừ thời hạn đã bị tạm giữ, tạm giam vào thời gian chấp hành hình phạt tù cũng như không trừ vào thời bị tạm giam, tạm giữ vào thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Án treo là chế định không mới trong pháp luật hình sự nước ta, là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện trong những năm qua án treo đã phát huy hiệu quả trong công tác xử lý tội phạm với phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục”, thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, tính ưu việt trong pháp luật hình sự khi không bắt người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo để người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc nhận thức đúng các quy định về án treo trong đó có quy định “thời gian tạm giữ, tạm giam không được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo”nhằm đảm bảo tính chính xác theo quy định của pháp luật hiện hành khi áp dụng án treo trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự./.

Hoàng Nguyên Thắng
Viện kiểm sát quân sự Quân khu 1


[1] Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946.

[2] Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986, Nghị quyết số 01-HĐTP ngày 18/10/1990, Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/11/2013, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[3] Điều 1 Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/11/2013,Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền tiếp cận công lý của công dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế được xác định là một mục tiêu trọng tâm. Trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu, cầu nối đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.
Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Điều kiện được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ ngày 01/7/2025

Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/2025/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về trợ cấp hưu trí, trong đó đã thể chế hóa các chính sách về trợ cấp hưu trí xã hội đối với người cao tuổi, đặc biệt là những người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo không được hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Nới lỏng điều kiện cho người chưa thành niên khi xin nhập quốc tịch Việt Nam

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025. Luật đã nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
delta-group
nha-hang-thai-village
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi