Chủ nhật 14/12/2025 04:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về việc miễn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng - Covid-19

Đại dịch Covid-19 đã và đang ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội không chỉ tại Việt Nam mà còn trên phạm vi toàn cầu. Về mặt pháp lý, theo quy định của pháp luật Việt Nam, Covid-19 có được xem là sự kiện bất khả kháng để bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng hay không? Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ phân tích quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về các điều kiện cần và đủ để một sự kiện được xem là sự kiện bất khả kháng, đồng thời phân biệt sự kiện bất khả kháng với các trường hợp khác, từ đó, kết luận rằng dịch bệnh Covid-19 là một sự kiện bất khả kháng và phân tích hệ quả pháp lý của dịch bệnh Covid-19 đối với hợp đồng đã giao kết.


1. Quy định pháp luật Việt Nam về sự kiện bất khả kháng

Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) không quy định sự kiện bất khả kháng trong phần hợp đồng, mà trong phần quy định chung, cụ thể là trong mục thời hiệu. Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

1.1. Điều kiện để được xem là sự kiện bất khả kháng

BLDS 2015 không đưa ra bất kỳ tiêu chí nào để xác định các yếu tố cấu thành sự kiện bất khả kháng cũng không liệt kê sự kiện nào được gọi là sự kiện bất khả kháng, mà vấn đề này được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành[1]. Tuy nhiên, dựa vào khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, có thể thấy một sự kiện được gọi là bất khả kháng khi hội đủ các điều kiện sau: (i) Xảy ra một cách khách quan, (ii) Không thể lường trước được và (iii) Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

(i) Yếu tố khách quan của sự kiện: Một sự kiện được xem là xảy ra một cách khách quan khi sự kiện đó không phụ thuộc vào ý chí các bên (các bên liên quan đến sự kiện, cụ thể là các bên trong hợp đồng). Ví dụ như, chiến tranh có thể được xem là sự kiện bất khả kháng, mặc dù việc xảy ra chiến tranh là do ý chí của con người, nhưng chiến tranh lại không phụ thuộc vào ý chí của các bên liên quan đến sự kiện, tức các bên trong hợp đồng.

(ii) Yếu tố không lường trước được của sự kiện: Có thể hiểu không lường trước được ở đây là nằm ngoài khả năng dự đoán của các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với hợp đồng, thời điểm nào được xem là thời điểm các bên không lường trước được việc xảy ra sự kiện. Thời điểm giao kết hợp đồng hay thời điểm thực hiện hợp đồng? Theo quan điểm của tác giả, thời điểm không lường trước được của việc xảy ra sự kiện phải là thời điểm giao kết hợp đồng. Đặt trường hợp nếu tại thời điểm giao kết hợp đồng, một trong các bên lường trước được sự kiện, nhưng không báo cho bên kia biết, đến thời điểm thực hiện hợp đồng mới đưa ra vấn đề sự kiện bất khả kháng, thì bên này đã vi phạm nguyên tắc trung thực khi xác lập hợp đồng. Do đó, bên còn lại có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối theo Điều 127 BLDS 2015. Dưới một góc độ khác, có thể vì lý do miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, đến thời điểm thực hiện hợp đồng, bên này mới đưa vấn đề sự kiện bất khả kháng đối với bên kia.

(iii) Yếu tố không thể khắc phục được của sự kiện: Phù hợp với nguyên tắc thiện chí, trung thực của pháp luật dân sự[2] nói chung, pháp luật về hợp đồng nói riêng[3], khi xảy ra sự kiện, bên có nghĩa vụ theo hợp đồng phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép để khắc phục các tác động của sự kiện đến hợp đồng nhằm mục đích thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng là các bên vẫn không thể hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết. Trên thực tế, yếu tố này thường không dễ chứng minh và phải được xem xét trong từng tình huống cụ thể.

1.2. Phân biệt sự kiện bất khả kháng và các trường hợp khác

Trước tiên, cần phải phân biệt sự kiện bất khả kháng và sự kiện bất ngờ. Nếu như sự kiện bất khả kháng là một khái niệm được quy định trong luật dân sự, thì sự kiện bất ngờ là một khái niệm chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Theo đó, Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định rằng người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Bên cạnh đó, cũng cần phải phân biệt sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Sự kiện bất khả kháng, tiếng Pháp gọi là force majeure, có nguồn gốc từ Bộ luật Dân sự Napoléon[4]. Trong khi đó, hoàn cảnh thay đổi cơ bản, tiếng Anh gọi là hardship, bắt nguồn từ nghiên cứu của Marcel Fontaine vào năm 1976[5]. Sự kiện bất khả kháng được quy định tại Điều 156 BLDS 2015. Còn hoàn cảnh thay đổi cơ bản được quy định tại Điều 420 BLDS 2015. Sự kiện bất khả kháng hàm ý rằng hợp đồng không thể thực hiện được, ít nhất là trong một khoảng thời gian nào đó và có thể đứng trước nguy cơ chấm dứt hợp đồng. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản chỉ khiến cho việc thực hiện hợp đồng trở nên khó khăn, đặc biệt là về phương diện chi phí, chứ không phải là không thể thực hiện được hợp đồng[6].

2. Covid-19 và vấn đề miễn trách nhiệm dân sự

2.1. Covid-19 là sự kiện bất khả kháng

Đối với dịch Covid-19, ngày 29/01/2020, Bộ Y tế ban hành Quyết định 219/QĐ-BYT về việc bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (nCov) gây ra vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007[7]. Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, các bệnh truyền nhiễm nhóm A gồm những bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm, có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh.

Đến ngày 01/02/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg về việc công bố dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra là dịch truyền nhiễm tại Việt Nam, thời điểm xảy ra dịch là từ ngày 23/01/2020[8]. Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid-19 trên phạm vi toàn quốc[9], thay thế cho Quyết định số 173/QĐ-TTg.

Tối ngày 11/3 theo giờ Việt Nam, Tổ chức Y tế Thế giới - WHO (World Health Organization) đã tuyên bố dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 do chủng mới của virus Corona (SARS-CoV-2) là một đại dịch toàn cầu[10].

Như vậy, có thể khẳng định rằng Covid-19 là một dịch bệnh truyền nhiễm. Trong lĩnh vực hợp đồng, dịch bệnh truyền nhiễm Covid-19 không thể là sự kiện bất ngờ, vốn được quy định trong luật hình sự. Dịch bệnh truyền nhiễm Covid-19 cũng không thuộc trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Bởi vì, đối với hoàn cảnh thay đổi cơ bản, hợp đồng vẫn có thể thực hiện được, nhưng xét về mặt chi phí, giá thành thực hiện cao hơn rất nhiều so với dự tính ban đầu. Trong khi đó, trên thực tế, do ảnh hưởng của Covid-19, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản[11], nhiều trường mầm non tư thục “đóng cửa”[12]… Dưới khía cạnh pháp lý, ngày 27/03/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng chống dịch Covid-19. Ngày 31/03/2020, Thủ tướng chính phủ tiếp tục ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, theo đó, trừ các cơ sở kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, các cơ sở kinh doanh khác bị tạm đình chỉ hoạt động[13]. Chính lệnh cấm các cá nhân, tổ chức kinh doanh không được hoạt động trong một thời hạn đã làm cho Covid-19 trở thành sự kiện bất khả kháng. Nói cách khác, dịch bệnh truyền nhiễm Covid-19 đã hội đủ các điều kiện để trở thành một sự kiện bất khả kháng, bao gồm: Xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

2.2. Hệ quả pháp lý của Covid-19 đối với hợp đồng

Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định rằng trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Theo khoản 1 Điều 351 BLDS 2015, trách nhiệm dân sự được hiểu là trách nhiệm phát sinh do bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ. Tương tự như quy định tại BLDS 2015, điểm b khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 xem sự kiện bất khả kháng là một trong những trường hợp bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm đối với bên có quyền trong hợp đồng.

Dựa vào các quy định trên, có thể thấy rằng, dù có hay không có thỏa thuận về sự kiện bất khả kháng, cụ thể là dịch bệnh trong hợp đồng, trường hợp một bên vi phạm hợp đồng do bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, thì bên đó không phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng với bên bị vi phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác. Cần phải lưu ý rằng, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm không có nghĩa là được miễn thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng với bên còn lại, trừ trường hợp bên có quyền trong hợp đồng chủ động miễn một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ đó cho bên có nghĩa vụ.

Như vậy, đối với hợp đồng vay tiền, nếu bên vay chứng minh được việc không thanh toán tiền vay đúng hạn là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thì bên vay được miễn trách nhiệm đối với bên cho vay đối với các khoản phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Đối với hợp đồng tín dụng, ngày 13/03/2020, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19. Triển khai thực hiện Thông tư 01/2020/TT-NHNN, nhiều ngân hàng đã giảm lãi suất vay cho khách hàng và cam kết tiếp tục giảm lãi suất thêm 2% đối với các doanh nghiệp phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của người dân[14]. Đối với hợp đồng thuê nhà hoặc thuê văn phòng, nếu bên thuê vẫn sử dụng nhà hoặc văn phòng, nhưng không thể thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê với lý do bị ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thì bên thuê sẽ không phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với bên cho thuê. Đối với hợp đồng xây dựng, việc nhà thầu phải giãn tiến độ thực hiện hợp đồng do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhà thầu sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại thực tế phát sinh từ việc chậm tiến độ và cũng không phải chịu chế tài phạt vi phạm hợp đồng xây dựng. Tuy nhiên, việc miễn trách nhiệm trong các hợp đồng không đồng nghĩa với việc loại trừ các nghĩa vụ theo hợp đồng đã ký kết.

Kết luận, dịch bệnh Covid-19 là tình huống pháp lý phát sinh chưa có tiền lệ từ trước đến nay, do vậy, các bên khó có thể dự liệu trong hợp đồng. Để tránh xung đột hoặc tranh chấp phát sinh về sau, ngay khi xảy ra dịch Covid-19 hoặc ít nhất là vào thời điểm này, bên vi phạm hợp đồng cần phải gửi thông báo ngay cho bên kia biết về sự kiện bất khả kháng do dịch bệnh Covid-19 gây ra, trong đó cần phải ghi rõ ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đối với việc thực hiện hợp đồng của bên vi phạm và các biện pháp mà bên vi phạm đã thực hiện để hạn chế những ảnh hưởng của Covid-19.

TS. Lâm Tố Trang

Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh


[1] Theo điểm a khoản 2 Điều 39 và Điều 51 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22/04/2015 quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng, các sự kiện như: Động đất, bão, lũ, lụt, sóng thần, hỏa hoạn, địch họa, thiên tai, sự cố môi trường, hỏa hoạn… được xem là sự kiện bất khả kháng. Các sự kiện như: Hang caster, cổ vật, khảo cổ, túi bùn mà khi ký hợp đồng các bên chưa lường hết được cũng được xem là sự kiện bất khả kháng tại khoản 1 Điều 16 Thông tư số 08/2016/TT-BXD do Bộ Xây dựng ban hành ngày 10/3/2016 hướng dẫn một số nội dung về hợp đồng tư vấn xây dựng và điểm a khoản 1 Điều 10 Thông tư số 09/2016/TT-BXD do Bộ Xây dựng ban hành ngày 10/3/2016 hướng dẫn hợp đồng thi công xây dựng công trình.

[2] Khoản 3 Điều 3 BLDS 2015.

[3]Trong BLDS 2005, các nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 389. Theo đó, việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự tại Điều 3 của Bộ luật này (xem Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 367 và 368).

[4]Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật dân sự, Tập 2, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2018, tr. 116.

[5]Fabio Bortolotti, ‎Dorothy Ufot, Hardship and Force Majeure in International Commercial Contracts Dealing with unforeseen events in a changing world, ICC Publication, 2018, https://books.google.com.vn/books?id=h2a5DwAAQBAJ&pg=PT9&lpg=PT9&dq=%22Marcel+Fontaine%22+%2B+hardship&source=bl&ots=-

GkN5kunp8&sig=ACfU3U0Vss_IoaUB3BtOMX3elZ6O-No_nw&hl=en&sa=X&ved=2ahUKEwjih-PVrdDoAhXymuYKHeaHC14Q6AEwAXoECAsQLg#v=onepage&q=%22Marcel%20Fontaine%22%20%2B%20hardship&f=false
, truy cập ngày 02/04/2020, xem phần Giới thiệu (Introduction).

[6]Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn Ngọc Điện, sđd, tr. 116 và 117.

[7] Điều 1 Quyết định số 219/QĐ-BYT do Bộ Y tế ban hành ngày 29/01/2020.

[8] Điều 1 Quyết định số 173/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 01/02/2020.

[9] Điều 1 Quyết định số 447/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 01/04/2020.

[10] Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, WHO tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu, http://baochinhphu.vn/Tin-noi-bat/WHO-tuyen-bo-COVID19-la-dai-dich-toan-cau/389702.vgp, ngày đăng: 12/03/2020, ngày truy cập: 04/04/2020.

[11] Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, Tuấn Vỹ, Đà Nẵng: Doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản vì dịch COVID-19, ngày đăng: 16/02/2020, ngày truy cập: 02/04/2020; Báo Thanh niên, Đình Sơn, Doanh nghiệp thấm đòn Covid-19, https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/doanh-nghiep-tham-don-covid-19-1201892.html, ngày đăng: 27/03/2020, ngày truy cập: 04/04/2020.

[12] Giáo dục Việt Nam, Phương Linh, Nhiều trường mầm non tư thục đóng cửa vì dịch bệnh Covid-19 kéo dài, https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/nhieu-truong-mam-non-tu-thuc-dong-cua-vi-dich-benh-covid19-keo-dai-post207546.gd, ngày đăng: 03/03/2020, ngày truy cập: 04/04/2020.

[13] Mục 2 điểm c Chỉ thị số 15/CT-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27/03/2020; mục 1 và mục 4 Chỉ thị số 16/CT-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 31/03/2020.

[14] Báo Tuổi trẻ, L. Thanh, Giảm lãi suất cho vay thêm 2% - 2,5%/ năm, https://tuoitre.vn/giam-lai-suat-cho-vay-them-2-25-nam-20200331192222891.htm, ngày đăng: 31/03/2020, ngày truy cập: 04/04/2020.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: