Thứ hai 09/06/2025 12:09
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bất cập trong quy định pháp luật về ký quỹ, ký cược

Ký quỹ, ký cược là hai trong chín biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. So với các biện pháp bảo đảm khác thì ký quỹ, ký cược nhìn chung còn khá xa lạ với nhiều người tham gia giao dịch và cũng có ít văn bản hướng dẫn chi tiết về hai biện pháp bảo đảm này. Trong bài viết, nhóm tác giả nêu lên một số bất cập, đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về ký quỹ, ký cược trong quan hệ pháp luật dân sự.


Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ”. Theo tìm hiểu của nhóm tác giả, tính đến thời điểm hiện tại, trong hệ thống pháp luật Việt Nam, ngoài điều khoản này thì không còn quy định nào định nghĩa trực tiếp ký quỹ là gì.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 329 thì: “Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê”. Dưới góc độ pháp lý, từ định nghĩa về ký cược, dễ dàng nhận thấy, quan hệ ký cược đi liền với hợp đồng thuê tài sản bao gồm hai bên tham gia là bên ký cược (bên thuê) và bên nhận ký cược (bên cho thuê). Việc ký cược chỉ được xác lập nhằm bảo đảm nghĩa vụ trả lại tài sản thuê trong hợp đồng thuê, trong đó, tài sản ký cược được dịch chuyển sang cho bên nhận ký cược. Tài sản ký cược có thể là tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác. Như vậy, biện pháp ký cược chỉ được sử dụng để bảo đảm duy nhất cho nghĩa vụ trả lại tài sản thuê là động sản. Điều đó có nghĩa là không được ký cược để bảo đảm nghĩa vụ đối với bất kỳ loại hợp đồng nào khác, kể cả hợp đồng thuê bất động sản (trước đây, ký cược đã từng được quy định nhằm bảo đảm việc khách du lịch nước ngoài thông qua các doanh nghiệp du lịch trở về nước[1]).

Trong phạm vi bài viết này, tác giả đưa ra quan điểm về một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện hơn quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ký quỹ, ký cược, cụ thể:

1. Quy định giới hạn về đối tượng được phép giao dịch ký quỹ, ký cược

Về loại tài sản được phép lưu thông, trao đổi trong giao dịch dân sự, theo khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tài sản gồm có bốn loại là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Ký quỹ, ký cược là hai trong chín biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, có đối tượng là tài sản gồm những loại như sau: (i) Đối tượng trong giao dịch ký quỹ bao gồm tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá (thiếu một loại tài sản là quyền tài sản); (ii) Đối tượng trong giao dịch ký cược bao gồm tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (thiếu hai loại tài sản là giấy tờ có giá và quyền tài sản). Như vậy, quy định về đối tượng của ký quỹ, ký cược theo Bộ luật Dân sự năm 2015 đều không bao gồm quyền tài sản, trong khi đó, các loại tài sản có thể giao dịch dân sự có quyền tài sản. Điều này sẽ làm giới hạn quyền giao dịch dân sự của các chủ thể. Bên cạnh đó, đối với các biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, ngoài những tài sản được liệt kê tại Điều 329, Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền tài sản cũng là đối tượng của các biện pháp bảo đảm này. Điều này cho thấy, so với các biện pháp bảo đảm khác, tài sản bảo đảm trong ký quỹ, ký cược còn bị hạn chế và giới hạn. Quy định của pháp luật đã tạo ra sự phân biệt giữa các biện pháp bảo đảm. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập xu thế toàn cầu hóa quốc tế hiện nay, tài sản giao lưu dân sự là quyền tài sản ngày càng phổ biến. Chính vì vậy, việc mở rộng phạm vi đối tượng bảo đảm của ký quỹ, ký cược là cần thiết. Tác giả đề xuất sửa đổi điều luật về đối tượng ký quỹ, ký cược như sau:

Thứ nhất, đối với ký quỹ, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá “hoặc quyền tài sản” vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.

Thứ hai, đối với ký cược, đối tượng là quyền tài sản cần được quy định cụ thể trong những trường hợp tài sản thuê có giá trị lớn, vì ký cược phải có sự chuyển giao tài sản nên đối với những giao dịch nhỏ thì đối tượng là quyền tài sản sẽ làm giao dịch này trở nên phức tạp, khó khăn trong việc chuyển giao quyền sở hữu giữa các bên. Bên cạnh việc bổ sung về đối tượng là quyền tài sản, tác giả đề xuất bỏ quy định “kim khí quý, đá quý” bên cạnh “vật có giá trị” vì vật có giá trị đã bao gồm kim khí quý, đá quý. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 329 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau: Ký cược là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc vật có giá trị hoặc quyền tài sản (sau đây gọi chung là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê.

Ở đây, đối với tài sản là giấy tờ có giá, tác giả không đề xuất bổ sung thành đối tượng của ký cược vì đối với ký cược, khi các bên xác lập giao dịch với nhau cần phải có sự chuyển giao tài sản nên đối với các loại giấy tờ có giá, khi chuyển giao thì phải thực hiện thủ tục chuyển giao tài sản theo quy định của pháp luật mà việc thực hiện thủ tục chuyển giao này làm mất nhiều thời gian và gây khó khăn cho cả hai bên; bên cạnh đó, giấy tờ có giá khi có sự chuyển giao cho bên kia thì cần phải thực hiện theo đúng quy định pháp luật để có thể xử lý được khi xảy ra tranh chấp.

2. Việc xác định chủ thể của giao dịch ký quỹ

Theo quy định tại Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì chủ thể tham gia giao dịch ký quỹ phải có ba bên, đó là bên có nghĩa vụ (bên ký quỹ), bên có quyền (bên nhận ký quỹ) và tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, trong thực tiễn, đối với lĩnh vực ngân hàng, việc ký quỹ có thể chỉ có sự tham gia của hai bên là bên ký quỹ và bên tổ chức tín dụng (cũng đồng thời là bên có quyền và bên nhận ký quỹ, thay vì lại phải ký quỹ ở một tổ chức tín dụng khác)[2]. Bên cạnh đó, theo một số quy định khác, giao dịch ký quỹ lại không nhất thiết phải có sự tham gia của tổ chức tín dụng, chẳng hạn như các công ty chứng khoán cũng thực hiện việc ký quỹ. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 cũng quy định: “Nghiêm cấm cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động ngân hàng, trừ giao dịch ký quỹ, giao dịch mua, bán lại chứng khoán của công ty chứng khoán” (khoản 2 Điều 8).

Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không bao quát được các trường hợp theo quy định của pháp luật ngân hàng và trên thực tế là ngoài trường hợp ký quỹ ba bên thì đang thừa nhận quan hệ ký quỹ chỉ có hai bên. Điều này dẫn đến việc thiếu thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật.

Vì vậy, tác giả đề xuất bổ sung cụm từ “trừ trường hợp luật có quy định khác” vào định nghĩa ký quỹ tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Dân sự năm 2015, theo đó: Ký quỹ là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản vào tài khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, “trừ trường hợp luật có quy định khác”. Phương án khác là có thể ban hành một văn bản quy định cụ thể, điều này sẽ phần nào hạn chế được tình trạng vi phạm pháp luật và góp phần tạo nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh hơn; việc quy định cụ thể cũng tránh gây nhầm lẫn, khó hiểu cho các bên, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho các chủ thể khi tham gia vào giao dịch ký quỹ.

3. Hình thức xác lập giao dịch ký cược

Đối với ký cược, pháp luật không quy định bắt buộc các chủ thể phải xác lập bằng hình thức văn bản. Tuy nhiên, theo tác giả, pháp luật cần sửa đổi theo hướng quy định các bên phải thỏa thuận ký cược bằng văn bản, bởi lẽ:

- Văn bản này là cơ sở pháp lý để các bên tham gia giao dịch phân định được đúng, sai, bảo vệ quyền lợi cho mình, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ, từ đó cũng hạn chế xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên.

- Ký cược bằng văn bản giúp nâng cao giá trị pháp lý của ký cược, tạo lòng tin để các chủ thể lựa chọn áp dụng trong các hợp đồng có giá trị lớn.

- Trong trường hợp tài sản ký cược là động sản có đăng ký quyền sở hữu thì thỏa thuận bằng văn bản là bằng chứng để bên cho thuê thực hiện việc đăng ký chuyển quyền sở hữu tài sản ký cược từ bên thuê sang cho mình[3].

- Văn bản ký cược là bằng chứng để cơ quan chức năng có thể thuận tiện cho việc kiểm tra, quản lý việc kinh doanh của các cơ sở kinh doanh; là bằng chứng pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp liên quan đến ký cược.

- Sự tồn tại của ký cược là vì một giao dịch dân sự khác được xác lập trước đó, nếu ký cược không được thể hiện rõ bằng văn bản thì nó không thể thực hiện tốt vai trò là biện pháp bảo đảm của mình.

- Pháp luật không quy định cụ thể ký cược bằng miệng thế nào được coi là hợp pháp, chỉ cần có hai bên chủ thể hay phải có người làm chứng khi xác lập giao dịch.

- Mặc dù pháp luật không bắt buộc nhưng trên thực tế, nếu tài sản ký cược có giá trị lớn, các bên cũng thường lựa chọn hình thức xác lập giao dịch ký cược bằng văn bản.

4. Xử lý tài sản ký cược trong trường hợp bên cho thuê không trả lại tài sản ký cược

Về xử lý tài sản ký cược, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định về trường hợp tài sản thuê được trả lại cho bên cho thuê và tài sản thuê không được trả lại cho bên cho thuê, mà chưa có quy định về trường hợp bên cho thuê không trả lại tài sản ký cược. Tức là pháp luật mới chỉ quy định được việc xử lý hậu quả khi một bên vi phạm (bên thuê), còn bên kia thì bỏ ngỏ (bên cho thuê). Điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thuê và làm mất đi sự bình đẳng của các bên khi tham gia giao dịch. Như vậy, khi có tranh chấp xảy ra, trường hợp bên cho thuê không trả lại tài sản ký cược thì xử lý như thế nào? Bên cạnh đó, luật cũng chưa quy định việc xử lý tài sản trong trường hợp tài sản ký cược có giá trị lớn hơn tài sản thuê hoặc nhỏ hơn tài sản thuê, khi xảy ra tranh chấp, các bên có phải trả phần thừa, bù phần thiếu hay không?

Theo tác giả, trong trường hợp bên cho thuê không trả lại tài sản ký cược thì xử lý theo hướng: (i) Nếu việc người cho thuê không trả lại tài sản ký cược là do không còn khả năng thanh toán thì người thuê được giữ tài sản thuê làm tài sản của mình; (ii) Nếu việc người cho thuê không trả lại tài sản ký cược không phải do mất khả năng thanh toán thì người thuê được giao trả tài sản thuê cho chính người cho thuê, sau đó có quyền lựa chọn có thể khởi kiện yêu cầu đòi lại tài sản ký cược hoặc yêu cầu bên cho thuê thanh toán giá trị tài sản ký cược cho mình. Đồng thời, luật cần bổ sung quy định về việc xử lý tài sản đối với trường hợp tài sản ký cược có giá trị lớn hơn tài sản thuê mà bên thuê muốn sở hữu tài sản ký cược thì sẽ phải hoàn trả số tiền chênh lệch của tài sản ký cược so với giá trị của tài sản thuê; ngược lại, nếu giá trị tài sản ký cược nhỏ hơn giá trị tài sản thuê thì bên cho thuê có quyền yêu cầu bên thuê bù thêm phần chênh lệch giá trị tài sản cho mình.

Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 329 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

“2. Trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê được nhận lại tài sản ký cược sau khi trả tiền thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì bên cho thuê có quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược thuộc về bên cho thuê và các bên phải thanh toán phần giá trị tài sản chênh lệch (nếu có) cho bên kia.

Trường hợp nếu bên cho thuê không còn tài sản ký cược để trả lại cho bên thuê thì bên thuê có quyền trả lại tài sản thuê cho bên cho thuê và yêu cầu bên cho thuê bồi thường giá trị tài sản ký cược, nếu bên cho thuê cố tình không muốn trả lại tài sản ký cược cho bên thuê thì bên thuê có quyền trả lại tài sản thuê cho chính người cho thuê và có thể khởi kiện đòi lại tài sản ký cược hoặc yêu cầu thanh toán giá trị tài sản ký cược nếu không muốn nhận lại tài sản ký cược”.

Trong trường hợp không sửa đổi, bổ sung điều khoản trong Bộ luật Dân sự thì tác giả đề xuất phương án khác là ban hành một số văn bản hướng dẫn chi tiết quy định áp dụng các trường hợp xử lý tài sản ký cược.

ThS. Nguyễn Thị Anh Thư
Đại học Trà Vinh
Đoàn Mỹ Xuyên
Sinh viên Đại học Trà Vinh


[1] Thông tư số 75-BTC/TCTN ngày 30/11/1992 của Bộ Tài Chính hướng dẫn việc nộp tiền ký cược của khách du lịch.

[2] Kỷ yếu Tọa đàm “Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm” do Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và Dự án JICA tổ chức ngày 09/7/2019 tại TP. Hồ Chí Minh.

[3] Hoàng Thế Liên và các tác giả khác (2013), Bình luận Bộ luật Dân sự 2005, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 156.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm