Chủ nhật 14/12/2025 04:35
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay

Bài viết phân tích sự tác động của các yếu tố xã hội đến hoạt động thực hiện pháp luật, từ đó, vận dụng phân tích sự tác động này vào hoạt động thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Ở Việt Nam, trong thời gian qua, những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là rất quan trọng. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đã được đưa ra xét xử, từ đó, tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Trong giai đoạn 2012 - 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 04 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang[1]. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 được ban hành gồm 10 chương với 96 điều, thay thế Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2007, 2012). Triển khai Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cho thấy, nhiều quy định đã đi vào thực tiễn cuộc sống giúp “tham nhũng được kiềm chế, từng bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đến nay, Trung ương đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (02 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang”. Những tháng đầu năm 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng yêu cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10 vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm[2].

Bên cạnh những kết quả đạt được, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những hạn chế, tồn tại là: “Một số bộ, ban, ngành, địa phương chưa có quyết tâm cao, chưa có sự chuyển biến mạnh. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn còn hạn chế; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp; việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ, cơ quan, đơn vị còn là khâu yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Tham nhũng trên một số lĩnh vực vẫn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, xảo trá, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những “kẻ thù hung ác”, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[3].

Qua các vụ việc tham nhũng bị phát hiện cho thấy, quy mô và độ tinh vi trong các vụ án tham nhũng cũng ngày càng tinh vi, phức tạp với những diễn biến nhanh, khó lường. Tình hình thế giới và khu vực trong thời gian tới, cũng như tình hình trong nước cho thấy công tác phòng, chống tiêu cực còn tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, cần có những giải pháp căn cơ, đột phá để đẩy lùi được tham nhũng, tiêu cực.

Pháp luật về phòng, chống tham nhũng đã và đang đi vào thực tiễn cuộc sống xã hội. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện pháp luật, trong đó, các yếu tố về xã hội có sự tác động rất đáng kể đến quá trình thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về phòng, chống tham nhũng nói riêng. Những yếu tố xã hội quan trọng tác động đến quá trình này bao gồm:

1. Yếu tố kinh tế

Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh về kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong lĩnh vực xã hội. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật[4].

Theo khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Chúng ta thấy rằng, phần lớn các trường hợp tham nhũng đều nhằm đến mục đích hưởng lợi bất chính. Tham nhũng là những hành vi vụ lợi cá nhân, trong đó, vấn đề lợi ích vật chất được đặt lên hàng đầu. Do đó, yếu tố kinh tế là yếu tố có tác động không nhỏ đến việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Mọi người dân, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức, đều cần có kinh tế để duy trì sự sống và các nhu cầu cuộc sống. Do đó, khi cuộc sống không được bảo đảm về mặt kinh tế thì cán bộ, công chức, viên chức khó có khả năng duy trì sự liêm chính, mà họ sẽ tìm cách để có thêm thu nhập, bổng lộc từ việc thực thi công vụ.

Môi trường kinh tế thiếu minh bạch sẽ là cơ hội để tham nhũng phát triển. Thực tiễn cuộc sống cho thấy, trong các lĩnh vực về kinh tế dễ dẫn đến các tội phạm liên quan đến tham nhũng. Theo Báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2022, từ ngày 01/10/2021 đến ngày 30/9/2022 đã phát hiện 5.117 vụ phạm tội về trật tự quản lý kinh tế, giảm 36,68%, trong đó khởi tố 2.390 vụ với 4.135 bị can; phát hiện 523 vụ phạm tội về tham nhũng và chức vụ, tăng 40,97%, trong đó khởi tố 501 vụ với 1.211 bị can. Trong 2.390 vụ về kinh tế thì số vụ việc về tham nhũng bị khởi tố chiếm gần 25%. Điều này cho thấy, tỷ lệ các vụ việc về tham nhũng trên tỷ lệ các vụ việc về kinh tế chiếm tỷ trọng rất cao, bởi lẽ lĩnh vực kinh tế là lĩnh vực gắn liền với lợi ích vật chất, vì vậy, các quy định về quản lý kinh tế càng chặt chẽ thì càng hạn chế được tham nhũng, khi các quy định về quản lý kinh tế càng có nhiều kẽ hở thì tham nhũng càng dễ phát sinh. Do đó, pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế có tác động đến việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Đối với những người thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng cũng sẽ thực hiện tốt hơn công tác này nếu như họ được bảo đảm các quyền lợi về kinh tế và về tinh thần. Khi vấn đề kinh tế của những người tham gia phòng, chống tham nhũng được bảo đảm sẽ giúp họ tránh việc bị “sa lầy”, “bị thoái hóa” trong thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, việc bảo đảm về kinh tế cũng giúp cho việc thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng tốt hơn.

2. Yếu tố chính trị

Yếu tố chính trị gắn chặt với quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua các chủ thể có chức vụ quyền hạn, do đó, quyền lực nhà nước không được kiểm soát chặt chẽ sẽ bị lạm dụng, chiếm đoạt, bị tha hóa thành quyền lực cá nhân biến thành công cụ để thực hiện các hành vi tham nhũng. Dưới góc độ chính trị, nguồn gốc của tham nhũng xuất phát từ hai yếu tố là: Sự tồn tại của quyền lực và sự tận dụng quyền lực để thỏa mãn nhu cầu cá nhân một cách không hợp pháp. Do đó, hệ thống chính trị cần xây dựng được tiêu chuẩn và hệ thống kiểm soát quyền lực để hạn chế tham nhũng, tiêu cực.

Pháp luật về phòng, chống tham nhũng là sự thể chế hóa quan điểm của Đảng về công tác này, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động trong cả nước. Để thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng đúng mục tiêu, định hướng, pháp luật thì yếu tố quan điểm, thái độ và quyết tâm chính trị của từng cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính quyền có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của công tác này. Thực tế cho thấy, ở thời điểm hệ thống chính trị có quyết tâm đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng lên cao thì chính quyền sẽ kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng.

Mặc dù, Luật Phòng, chống tham nhũng đã được ban hành từ năm 2005, nhưng số vụ tham nhũng bị phát hiện trước đây còn ít và cơ bản là các vụ nhỏ, liên quan đến đến những người có chức vụ, quyền hạn không cao trong hệ thống chính trị. Từ năm 2012 khi thành lập Ban Nội chính Trung ương - cơ quan thường trực về phòng, chống tham nhũng của Đảng và với việc ban hành rất nhiều các nghị quyết của Đảng về công tác này, cho đến nay, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều các vụ đại án như vụ Việt Á, vụ Vạn Thịnh Phát, vụ Tập đoàn Phúc Sơn, vụ chuyến bay giải cứu… trong đó đều có liên quan đến nhiều nguyên lãnh đạo giữ các vị trí, trọng trách cao trong nhà nước. Kết quả trên cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng phụ thuộc rất lớn vào nhận thức chính trị, quyết tâm chính trị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng thông qua các hành động chính trị cụ thể.

3. Yếu tố văn hóa - xã hội

Xét từ góc độ văn hóa - xã hội, tham nhũng xuất phát từ quan điểm lệch lạc và thái độ thiếu tôn trọng giá trị công cộng, giá trị cá nhân. Khi giá trị cá nhân không được coi trọng sẽ dẫn đến xâm hại giá trị công cộng. Việc chống chủ nghĩa cá nhân thái quá dẫn đến cực đoan trong đời sống tinh thần, xã hội. Việc xem nhẹ giá trị cá nhân sẽ dẫn đến thiếu trách nhiệm đối với hành vi của mình, dễ dàng tiếp nhận lợi ích không chính đáng. Sự nhận thức lệch lạc về giá trị cá nhân, giá trị tập thể sẽ dẫn đến tham nhũng tập thể.

Tham nhũng còn được hỗ trợ bởi các yếu tố tiêu cực trong nền văn hóa như văn hóa Á Đông là văn hóa biếu, tặng quà, văn hóa “cảm ơn”. Việc biếu, tặng quà, cảm ơn nếu theo nghĩa tích cực và không đặt nặng vấn đề vật chất thì là hành vi đẹp bày tỏ sự biết ơn của mình với những người thân, những người đã hỗ trợ mình trong cuộc sống và thông thường được thực hiện vào các dịp lễ tết, tuy nhiên, nếu những người lợi dụng văn hóa này theo hướng tiêu cực thì các món quà tặng, sự cảm ơn bằng tiền, bằng rất nhiều tiền để đạt được mục đích cá nhân thì chính là hành vi dẫn đến tham nhũng. Bên cạnh đó, tâm lý tiểu nông, thu vén cá nhân đã dẫn đến tư duy chỉ chăm chăm lợi ích cá nhân, mà không quan tâm đến lợi ích chung, lợi ích tập thể. Đây là khởi nguồn của tham nhũng. Thói quen “trọng tình, trọng nghĩa hơn trọng lý” dẫn đến tình trạng cả nể, vô nguyên tắc, thiếu tôn trọng pháp luật. Tâm lý “dĩ hòa vi quý”, “im lặng là vàng” sẽ dẫn đến việc “thui chột” tinh thần đấu tranh, phòng, chống tham nhũng.

Quan hệ dòng họ, thân tộc, quyến thuộc cũng có tác động tiêu cực đến việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, dễ nảy sinh tính cục bộ, lợi dụng, thu được các lợi ích bất hợp pháp.

Công tác truyền thông cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác phòng, chống tham nhũng. Truyền thông đối với gương người tốt, việc tốt trong phòng, chống tham nhũng sẽ làm mỗi công dân, cơ quan, tổ chức tự tin, dám đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực. Truyền thông về các mặt trái của tham nhũng, kết quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng sẽ giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng đắn về tham nhũng, từ đó tự hạn chế, loại trừ tham nhũng. Chúng ta cũng thấy rằng, gần đây, mỗi vụ việc tham nhũng bị phát hiện, bị xử lý thì truyền thông chính thống trong nước đã có nhiều bài viết, phân tích, đưa tin về vụ việc một cách khách quan để từ đó định hướng dư luận trong việc tích cực đóng góp cho công cuộc phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, nếu đọc thông tin từ báo chí phản động trong và ngoài nước thì thấy rằng thông tin có tính suy diễn để bôi nhọ và làm giảm sút uy tín của Đảng. Do đó, việc lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm soát công tác truyền thông đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc định hướng dự luận và tạo niềm tin trong công tác phòng, chống tham nhũng.

4. Yếu tố pháp luật

Yếu tố pháp luật là yếu tố rất quan trọng trong việc thực thi pháp luật. Muốn thực hiện được công tác phòng, chống tham nhũng thì cần phải có quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Pháp luật sẽ đóng vai trò là cơ sở, là nền tảng và là công cụ để thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng. Trong các công cụ thực hiện việc phòng, chống tham nhũng thì công cụ pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất. Nếu không có hệ thống các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng thì không có cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động phòng ngừa và xử lý tham nhũng. Do đó, khi hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng được ban hành đầy đủ, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao là điều kiện cần để thực hiện việc phòng ngừa và đấu tranh với tham nhũng. Nhưng nếu hệ thống các quy định pháp luật không đầy đủ, chồng chéo, mâu thuẫn hoặc xa rời thực tế sẽ cản trở quá trình thực hiện pháp luật trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng càng chặt chẽ, nghiêm minh, hình phạt tương ứng với hành vi tham nhũng thì sẽ hạn chế được tình trạng tham nhũng vì pháp luật có tính răn đe rất cao. Ngược lại, nếu các quy định này không đủ sức răn đe thì sẽ không tạo được sự cảnh tỉnh đối với các cá nhân có khả năng tham nhũng, sẽ dẫn đến “nhờn” pháp luật, sẵn sàng vi phạm pháp luật vì mục đích cao hơn.

Bên cạnh đó, ý thức pháp luật của các cán bộ, công chức, viên chức cũng như của các tổ chức, cá nhân cũng là yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Ý thức pháp luật được biểu hiện qua các hành vi ứng xử của từng cá nhân cán bộ, công chức, viên chức là bộ phận có cơ hội để thực hiện các hành vi tham nhũng. Vì vậy, nếu cán bộ, công chức, viên chức có ý thức pháp luật cao thì họ sẽ có khả năng lựa chọn hành vi để có sự xử sự đúng đắn trước những cám dỗ của lợi ích, có đủ bản lĩnh để từ chối và giữ được sự liêm chính của mình. Về phía công dân, khi đã có ý thức pháp luật về phòng, chống tham nhũng tốt thì họ sẽ không thực hiện các hành vi tiếp tay cho tham nhũng như hành vi hối lộ và cũng sẽ không ngần ngại, không sợ hãi, không nao núng trước hành vi tham nhũng và sẵn sàng cung cấp thông tin để xử lý các hành vi tham nhũng.

5. Yếu tố hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế cũng có tác động đến công tác phòng, chống tham nhũng. Khi hội nhập quốc tế các quan hệ giao lưu với các nước trên thế giới được rộng mở, do đó cũng đặt ra thách thức cho công tác phòng, chống tham nhũng, bởi lẽ, tham nhũng sẽ tinh vi, phức tạp hơn khi có sự giao lưu học hỏi các cách thức khác nhau của tham nhũng và sự tiếp tay từ bên ngoài thông qua các hành vi như chuyển tài sản, tiền tham nhũng ra nước ngoài hoặc hành vi rửa tiền của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài vào Việt Nam, trốn ra nước ngoài để tránh việc bị điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cũng tạo cơ hội cho công tác phòng, chống tham nhũng như việc tham gia các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương về phòng, chống tham nhũng sẽ đòi hỏi các quốc gia phải nỗ lực để thực hiện các cam kết này, đồng thời hội nhập còn là quá trình chia sẻ các kinh nghiệm hay về công tác phòng, chống tham nhũng…

Nhìn chung, tham nhũng xuất phát từ chính bộ máy công quyền, có gắn kết chặt chẽ với quyền lực nhà nước, người có chức vụ, quyền hạn, vì vậy, phòng, chống tham nhũng nói chung, thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là các yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và pháp luật. Việc nhận diện các yếu tố này sẽ giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng ở nước ta có những cơ chế phù hợp nhằm phát huy yếu tố tích cực, giảm thiểu tác động trái chiều, giúp cho kết quả của công cuộc phòng, chống tham nhũng đạt kết quả cao hơn./.

Đặng Kim Hoa

Phó Cục trưởng Cục Bổ Trợ tư pháp, Bộ Tư pháp

[1]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Nhìn lại 10 năm qua; định ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới - TIÊU ĐIỂM, Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn).

[2]. ThS. Nguyễn Văn Hùng, Thực trạng và một số giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (tcnn.vn).

[3]. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Nhìn lại 10 năm qua; định ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tới - TIÊU ĐIỂM, Tạp chí Cộng sản (tapchicongsan.org.vn).

[4]. https://luatduonggia.vn/yeu-to-kinh-te-tac-dong-den-hoat-dong-thuc-hien-phap-luat/, truy cập ngày 20/3/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 402), tháng 4/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: