Thứ bảy 07/06/2025 00:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bị hại, người làm chứng, người tố giác tội phạm là những người tham gia tố tụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án hình sự, vì lời khai của họ là nguồn chứng cứ quan trọng trong vụ án.

1. Dẫn nhập
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bị hại, người làm chứng, người tố giác tội phạm là những người tham gia tố tụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án hình sự, vì lời khai của họ là nguồn chứng cứ quan trọng trong vụ án. Chính vì vậy, họ là những người dễ bị xâm hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản trong quá trình tham gia tố tụng. Hiện nay, ở một số nhóm tội danh xâm hại về tính mạng, sức khỏe, về ma túy, tham nhũng, những đối tượng thực hiện loại tội phạm này rất tinh vi, manh động, sẵn sàng xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người tố giác tội phạm, người bị hại, người làm chứng khi họ cung cấp thông tin cho cơ quan tố tụng.
Hiến pháp năm 2013 dành riêng Chương II quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chế độ chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 1 Điều 14); “mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” (Điều 19); “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm…” (Điều 20); “nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo…” (Điều 30). Việc quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Chương II ngay sau Chương I - Chế độ chính trị cho thấy quan điểm của Đảng, Nhà nước đánh giá tầm quan trọng về quyền con người cần được pháp luật bảo vệ.
Trên cơ sở đánh giá thực tiễn thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về cơ chế bảo vệ người tham gia tố tụng và bảo vệ quyền con người, để bảo vệ người tham gia tố tụng khỏi sự xâm hại hoặc đe dọa xâm hại do họ tham gia tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự) đã chính thức ghi nhận chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác.
2. Nội dung của chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác
Thứ nhất, đối tượng được bảo vệ:
Theo quy định tại Chương XXXIV Bộ luật Tố tụng hình sự thì những chủ thể sau được áp dụng biện pháp bảo vệ bao gồm: Người tố giác tội phạm; người làm chứng; bị hại; người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại (Điều 484).
Thứ hai, căn cứ đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ:
Khi tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố giác tội phạm; người làm chứng; bị hại; người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại thì họ có quyền yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ. Hình thức đề nghị yêu cầu bảo vệ có thể làm văn bản đề nghị hoặc trường hợp khẩn cấp, người được bảo vệ trực tiếp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản đề nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 487).
Khi nhận được đề nghị yêu cầu bảo vệ, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải đánh giá, xem xét yêu cầu của họ có tính xác thực và có căn cứ hay không, nếu xét thấy yêu cầu của họ không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ thì phải giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết.
Thứ ba, các biện pháp bảo vệ:
Các biện pháp bảo vệ được quy định tại khoản 1 Điều 486 Bộ luật Tố tụng hình sự bao gồm:
- Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ;
- Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ;
- Giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ;
- Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý;
- Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật;
- Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, cơ quan, người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ:
- Cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ gồm: Cơ quan điều tra của Công an nhân dân; Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân.
- Người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ gồm:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra của Công an nhân dân có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ trong các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân cùng cấp; đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ đối với người được bảo vệ trong các vụ việc, vụ án hình sự do cơ quan mình thụ lý, giải quyết, điều tra hoặc theo đề nghị của Viện kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự cùng cấp; đề nghị của Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ của Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án các cấp. Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân xét thấy cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ thì có văn bản đề nghị cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý vụ án trong Công an nhân dân và Quân đội nhân dân ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ (khoản 3 Điều 485 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Thứ năm, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ:
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ gồm các nội dung chính: Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định; chức vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được bảo vệ; biện pháp bảo vệ và thời gian bắt đầu thực hiện biện pháp bảo vệ.
- Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết (Điều 488 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Thứ sáu, chấm dứt việc bảo vệ:
Khi xét thấy căn cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không còn, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ.
Quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ (khoản 4 Điều 489 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Thứ bảy, hồ sơ bảo vệ:
Khi cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ thì phải lập hồ sơ bảo vệ riêng thể hiện quá trình áp dụng biện pháp bảo vệ. Hồ sơ bảo vệ gồm:
- Văn bản đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ; biên bản về việc đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ;
- Kết quả xác minh về hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ;
- Tài liệu về hậu quả thiệt hại đã xảy ra (nếu có) và việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền;
- Văn bản yêu cầu, đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ;
- Tài liệu phản ánh diễn biến quá trình áp dụng biện pháp bảo vệ;
- Văn bản yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp bảo vệ;
- Báo cáo kết quả thực hiện biện pháp bảo vệ;
- Quyết định chấm dứt biện pháp bảo vệ;
- Các văn bản, tài liệu khác có liên quan đến việc bảo vệ (khoản 2 Điều 490 Bộ luật Tố tụng hình sự).
2. Một số khó khăn, vướng mắc
Một là, về kỹ thuật lập pháp: Theo quy định tại Chương XXXIV Bộ luật Tố tụng hình sự thì chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác có chủ thể được bảo vệ là người tham gia tố tụng nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chủ thể được bảo vệ bao gồm cả người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự thì người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại không phải là người tham gia tố tụng, chính điều này không bảo đảm sự đồng bộ giữa tên chương với đối tượng được bảo vệ theo quy định tại Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Hai là, Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự giới hạn các chủ thể được áp dụng biện pháp bảo vệ bao gồm: Người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại, người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại… Nghiên cứu quy định này có một số khó khăn, vướng mắc sau:
- Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Như vậy, bị hại không chỉ là cá nhân mà còn có cả pháp nhân, tuy nhiên, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị thiệt hại khi bị đe dọa xâm hại đến tính mạng yêu cầu được bảo vệ thì không áp dụng được vì căn cứ áp dụng biện pháp bảo vệ được quy định tại khoản 1 Điều 486 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau: “Khi có căn cứ xác định tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ bị xâm hại...”.
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 67, khoản 2 Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người chứng kiến, người phiên dịch và người dịch thuật thì những chủ thể này cũng có quyền được đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa nhưng theo nội dung Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự thì họ lại không nằm trong nhóm chủ thể được áp dụng các biện pháp bảo vệ, trong khi đó tên Chương XXXIV Bộ luật Tố tụng hình sự xác định phạm vi áp dụng bao gồm người tham gia tố tụng khác.
- Về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp bảo vệ, Chương XXXIV Bộ luật Tố tụng hình sự mới chỉ quy định chung về thẩm quyền, biện pháp áp dụng biện pháp bảo vệ mà chưa có những hướng dẫn cụ thể về quy trình áp dụng như thế nào dẫn đến khó khăn khi áp dụng trên thực tiễn, cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự chỉ quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, vậy vấn đề đặt ra là, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra sẽ huy động lực lượng nào để áp dụng các biện pháp bảo vệ, vì hiện nay ở một số địa phương điều tra viên và cán bộ điều tra còn chưa đủ để áp dụng biện pháp bảo vệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Ba là, về phạm vi chủ thể có quyền đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ, theo quy định tại Điều 487 Bộ luật Tố tụng hình sự thì chỉ người được bảo vệ mới có quyền làm văn bản đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ, vậy, trường hợp người dưới 18 tuổi thì người đại diện theo pháp luật của họ có quyền đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ hay không? Trong khi đó, họ cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong việc bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ trong quá trình tiến hành lấy lời khai hoặc đề nghị khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại.
Bốn là, một số nội dung khác trong Chương XXXIV Bộ luật Tố tụng hình sự còn vướng mắc khi áp dụng như một số từ ngữ chưa có giải thích như các biện pháp bảo vệ khác được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 486 là những biện pháp nào hoặc khoản 4 Điều 488 quy định cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng có thể thay đổi, bổ sung biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ nếu xét thấy cần thiết hoặc thời hạn kiểm tra căn cứ, tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ trước khi ra quyết định bảo vệ là bao lâu hiện nay chưa có quy định cụ thể.
3. Kiến nghị, đề xuất
Thứ nhất, bổ sung diện những người cần được áp dụng biện pháp bảo vệ quy định tại khoản 1 Điều 484 Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm tính lôgíc chặt chẽ về hình thức và nội dung trong Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể như sau:
“Điều 484. Người được bảo vệ
1. Những người được bảo vệ gồm:
a) Người tố giác tội phạm;
b) Người làm chứng;
c) Bị hại;
d) Người thân thích của người tố giác, báo tin về tội phạm, người làm chứng, bị hại, người chứng kiến, người phiên dịch, người dịch thuật;
đ) Người chứng kiến;
e) Người phiên dịch, người dịch thuật.
2…”.
Thứ hai, liên ngành tư pháp trung ương cần nghiên cứu xây dựng thông tư hướng dẫn áp dụng chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác, thông tư cần tập trung hướng dẫn những vấn đề cụ thể về các biện pháp bảo vệ: Trình tự, thủ tục áp dụng, chủ thể có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ và mối quan hệ giữa các chủ thể này khi áp dụng các biện pháp bảo vệ như thế nào. Ngoài ra, trong thông tư cần có quy định thống nhất về thời hạn gửi quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ cho người được bảo vệ và hướng dẫn cụ thể các cụm từ mang tính tùy nghi, trừu tượng như “cần thiết” tại Điều 488 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ ba, trước khi có văn bản hướng dẫn áp dụng chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra cần chủ động nghiên cứu và phối hợp với Viện kiểm sát trong việc áp dụng một số biện pháp bảo vệ cụ thể như: Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ; giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ; răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật.
Bộ luật Tố tụng hình sự ghi nhận chế định bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng, quy định này làm cho nhân dân tin tưởng, tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả hơn. Đồng thời, xác định trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng là cần bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

ThS. Nguyễn Tiến Nam
Khoa Luật, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân



Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Ngọc Anh, Phan Trung Hoài (2008), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Trường Đại học Cảnh sát nhân dân, Tập bài giảng luật tố tụng hình sự Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh, 2019.
4. Https://tapchitoaan.vn/Bai-Viet/Phap-Luat/Hoan-Thien-Quy-Dinh-Ve-Bao-Ve-Nguoi-To-Giac-Toi-Pham-Nguoi-Lam-Chung-Bi-Hai-Va-Nguoi-Tham-Gia-To-Tung-Khac, truy cập ngày 05/10/2022.
5. Https://luathinhsu.wordpress.com/2010/08/26/hoan-thien-co-so-phap-ly-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-nguoi-lam-chung-nguoi-bi-hai-trong-vu-an-hinh-su/, truy cập ngày 05/10/2022.
6. Https://kiemsat.vn/bat-cap-trong-quy-dinh-ve-bao-ve-nguoi-to-giac-toi-pham-nguoi-lam-chung-bi-hai-50481.html, truy cập ngày 05/10/2022.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm