Thứ năm 12/06/2025 16:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế tài hình sự đối với hành vi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn

Trong bài viết này, tác giả phân tích về các hành vi cấu thành tội phạm đối với hành vi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn và chế tài xử lý, từ đó, đưa ra nhận xét, đánh giá và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

1. Hành vi cấu thành tội phạm và chế tài xử lý

Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự), một người thực hiện một hành vi cấu thành tội phạm khi về mặt chủ quan họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là họ phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12). Tại Điều 21, Bộ luật cũng quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, Bộ luật Hình sự cũng quy định “Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 13). Đặc biệt, trong cấu thành tội phạm của một số tội phạm cụ thể, nhất là trong các nhóm tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Bộ luật Hình sự cũng quy định phạm tội trong tình trạng “có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức” là định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự tại 03 tội phạm, bao gồm: (i) Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260)[1]; (ii) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 267)[2]; (iii) Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 272)[3] và hành vi này cũng được xác định là yếu tố cấu thành tội phạm của 07 tội, bao gồm: Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 263); Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 264)[4]; Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 270); Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 271)[5]; Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 275); Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 276)[6]; Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay (Điều 280)[7].

Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260): Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm (điểm b khoản 2). Về nội dung này, tại khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông (Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC) đã giải thích: Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự được hiểu là một trong những trường hợp sau đây:

a) Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc đang trong tình trạng say do sử dụng các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia;

b) Người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn;

c) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.

Như vậy, hành vi của người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy tham gia giao thông đường bộ mà trong tình trạng trong máu có nồng độ cồn chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thì chưa thỏa mãn yếu tố cấu thành định khung tăng nặng của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260).

Đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 267): Người nào chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm (điểm b khoản 2). Về nội dung này, tại khoản 4 và 5, Điều 8 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC đã làm rõ: “4. Trong tình trạng dùng rượu bia quá nồng độ quy định quy định tại điểm b khoản 2 Điều 208 Bộ luật Hình sự là trường hợp người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc 40 miligam/1lít khí thở. 5. Say do dùng các chất kích thích mạnh khác quy định tại điểm b khoản 2 Điều 208 Bộ luật Hình sự là trường hợp người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, trường hợp người chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt mà trong máu có nồng độ cồn chưa vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 40 miligam/1lít khí thở hoặc tuy có nồng độ cồn trong máu hoặc khí thở nhưng họ lại không ở trong tình trạng say do sử dụng rượu bia mà sau khi sử dụng có biểu hiện say thì không thỏa mãn cấu thành định khung tăng nặng của tội phạm này.

Đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 272): Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường thủy mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường thủy gây thiệt hại cho người khác trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm (điểm b khoản 2 Điều 272). Khoản 3 Điều 10 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định: “Trong tình trạng dùng rượu, bia quá nồng độ quy định quy định tại điểm b khoản 2 Điều 212 Bộ luật Hình sự là trường hợp điều khiển phương tiện giao thông đường thủy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc 40 miligam/1lít khí thở”. Như vậy, trường hợp điều khiển phương tiện giao thông đường thủy mà trong máu có nồng độ cồn chưa vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 40 miligam/1lít khí thở thì không thỏa mãn cấu thành định khung tăng nặng của tội phạm này.

Đối với tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ (Điều 264): Người nào giao cho người mà biết rõ người đó đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định của pháp luật điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC làm rõ: “Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 205 Bộ luật Hình sự là người không am hiểu các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường bộ; người không đủ sức khỏe, độ tuổi để điều khiển phương tiện; người do tình trạng sức khỏe không thể tự chủ điều khiển được tốc độ; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, hành vi giao phương tiện cho người đang trong tình trạng say do sử dụng rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 264 mới thỏa mãn cấu thành tội phạm này, còn nếu chưa rơi vào trạng thái say thì không thỏa mãn cấu thành của tội phạm này.

Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 270): Người nào điều động người không có giấy phép lái tàu hoặc người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy, chất kích thích mạnh khác hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản a, b, c và d khoản 1 Điều này hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khoản 1 Điều 9 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC làm rõ: “Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 211 Bộ luật Hình sự là người không đủ sức khỏe (do ốm đau, làm việc quá sức) để chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, hành vi điều động người đang trong tình trạng say do sử dụng rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản a, b, c và d khoản 1 Điều 270 hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới thỏa mãn cấu thành tội phạm này, còn nếu chưa rơi vào trạng thái say thì không thỏa mãn cấu thành của tội phạm này.

Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường sắt (Điều 271): Người nào giao cho người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c và d Điều 271 hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Về nội dung này, tại khoản 1 Điều 9 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC làm rõ: “Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 211 Bộ luật Hình sự là người không đủ sức khỏe (do ốm đau, làm việc quá sức) để chỉ huy, điều khiển phương tiện giao thông đường sắt; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, hành vi giao phương tiện cho người đang trong tình trạng say do sử dụng rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông đường sắt gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản a, b, c và d khoản 1 Điều 271 hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới thỏa mãn cấu thành tội phạm này, còn nếu chưa rơi vào trạng thái say thì không thỏa mãn cấu thành của tội phạm này.

Tội điều động người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 275): Người nào điều động người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 275 hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC làm rõ: “Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 215 Bộ luật hình sự là người không thông hiểu các quy định về trật tự an toàn giao thông đường thủy; người không đủ sức khỏe, tuổi để điều khiển phương tiện; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, hành vi điều động phương tiện cho người đang trong tình trạng say do sử dụng rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản a, b, c và d khoản 1 Điều 275 hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới thỏa mãn cấu thành tội phạm này, còn nếu chưa rơi vào trạng thái say thì không thỏa mãn cấu thành của tội phạm này.

Tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường thủy (Điều 276): Người nào giao cho người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 1 Điều 276 hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Về nội dung này, tại khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định: “Người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 215 Bộ luật Hình sự là người không thông hiểu các quy định về trật tự an toàn giao thông đường thủy; người không đủ sức khỏe, tuổi để điều khiển phương tiện; người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia”. Như vậy, với quy định và hướng dẫn nêu trên, hành vi giao phương tiện cho người đang trong tình trạng say do sử dụng rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng rượu, bia điều khiển phương tiện giao thông đường thủy gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản a, b, c và d khoản 1 Điều 276 hoặc đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới thỏa mãn cấu thành tội phạm này, còn nếu chưa rơi vào trạng thái say thì không thỏa mãn cấu thành của tội phạm này.

Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay (Điều 280): Người nào điều động hoặc giao cho người không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển tàu bay, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Với nội dung này, tại Điều 14 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC làm rõ: “Không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển phương tiện giao thông đường không quy định tại khoản 1 Điều 219 Bộ luật hình sự được hiểu là không đủ các điều kiện về sức khỏe, trình độ chuyên môn như người lái tàu bay không đủ điều kiện về sức khỏe (do ốm đau, làm việc quá sức), người sử dụng các trang thiết bị phụ trợ giao thông đường không không đủ điều kiện về trình độ chuyên môn, khả năng; người đang trong tình trạng sử dụng ma túy hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện như người sử dụng ma túy, rượu, bia”.

2. Một số nhận định, đánh giá

Qua nghiên cứu các quy định trên đây của Bộ luật Hình sự, Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC tác giả có một số nhận định, đánh giá sau:

Một là, Bộ luật Hình sự và Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC chưa phản ánh đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi “điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”, chưa tương thích và đồng bộ với quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa và Luật Đường sắt. Theo Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019, điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” là hành vi bị nghiêm cấm (khoản 6 Điều 5). Luật Giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 cũng quy định “điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” là hành vi bị nghiêm cấm (khoản 8 Điều 8). Luật Giao thông đường thủy nội địa số 23/2004/QH11 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 48/2014/QH13, Luật số 97/2015/QH13 và Luật số 35/2018/QH14) quy định hành vi bị nghiêm cấm: “Thuyền viên, người lái phương tiện đang làm việc trên phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn hoặc có các chất kích thích khác mà luật cấm sử dụng” (khoản 8 Điều 8). Luật Đường sắt năm 2017 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 ngày 20/11/2018) khi xác định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động đường sắt cũng nghiêm cấm hành vi: “Nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu trong khi làm nhiệm vụ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn hoặc có chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng” (khoản 17 Điều 9) và các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt (đã được sửa đổi, bổ sung) khi quy định “điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” là một hành vi vi phạm và bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt rất nghiêm khắc với mức tiền phạt cao hơn, thời hạn tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe cũng dài hơn[8].

Hai là, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29/6/2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2014/QH13 ngày 21/11/2014 của Quốc hội) chưa quy định: “Điều khiển tàu bay mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng không dân dụng nên chưa tương thích với quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 và có sự chưa nhất quán đối với hành vi “điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy với đường hàng không trong khi đó điều khiển phương tiện giao thông đường hàng không có tính nguy hiểm rất cao độ. Cũng từ bất cập này của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam nên Bộ luật Hình sự chưa có quy định về tình tiết định khung tăng nặng liên quan đến hành vi “điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” đối với người điều khiển tàu bay trong tội vi phạm quy định về điều khiển tàu bay (Điều 277) và là tình tiết cấu thành tội phạm tại tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay (Điều 280), trong khi đó đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có khả năng gây ra những hậu quả rất lớn cho xã hội so với điều khiển giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy.

3. Đề xuất, kiến nghị

Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh và chống các tội phạm liên quan đến người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn và bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật cần sớm tổng kết, đánh giá thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm có liên quan đến hành vi sử dụng rượu bia, nhất là hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt mà “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định” với tính chất là cấu thành định khung tăng nặng tại điểm b, khoản 2 các điều 260, 267 và Điều 272 và với tính chất là cấu thành tội phạm tại khoản 1 các điều 263, 264, 270, 271, 275, 276 và Điều 280 Bộ luật Hình sự gắn với tổng kết việc thực hiện Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC, trên cơ sở đó, rà soát, đánh giá và đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Hình sự, cụ thể:

Một là, thay thế cụm từ “trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định” tại điểm b, khoản 2 các điều 260, 267 và Điều 272 bằng cụm từ “điều khiển phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự; bổ sung tình tiết “điều khiển phương tiện mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” vào khoản 2 Điều 277 với tính chất là tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm quy định về điều khiển tàu bay.

Hai là, thay thế cụm từ “người đang trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định của pháp luật” tại các điều 263, 264, 270, 271, 275, 276 và cụm từ “người đang trong tình trạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia” tại các điều 270, 271, 275, 276 của Bộ luật Hình sự và hướng dẫn cụ thể tại các điều tương ứng của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC thành cụm từ “người điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” để bảo đảm tất cả những hành vi điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nếu gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp do Bộ luật quy định hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì đều bị xử lý về các tội phạm tương ứng với hành vi vi phạm. Đồng thời, bổ sung tình tiết cấu thành tội phạm tại khoản 1 Điều 280 (Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển tàu bay) đối với người thực hiện hành vi điều động hoặc giao cho người mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn điều khiển tàu bay).

Ba là, sớm rà soát, bãi bỏ các nội dung tương ứng liên quan đến nồng độ cồn vượt quá mức quy định tại khoản 2 Điều 3, khoản 4 Điều 8, khoản 3 Điều 10, Điều 14 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC theo hướng không quy định “nồng độ cồn vượt quá mức quy định” để nâng cao trách nhiệm của người tham gia giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt và điều khiển tàu bay khi đã sử dụng rượu bia trên nguyên tắc đã uống rượu bia thì không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, không điều khiển tàu bay; nếu đã uống rượu bia mà còn điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy hoặc điều khiển tàu bay thì phải chịu trách nhiệm hình sự, bị xử phạt vi phạm hành chính cao hơn so với người không sử dụng rượu bia tham gia giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy thực hiện hành vi vi phạm tương ứng.

Bốn là, bổ sung hành vi “điều khiển tàu bay mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” là hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động hàng không dân dụng trong Luật Hàng không dân dụng Việt Nam số 66/2006/QH11 ngày 29/6/2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2014/QH13 ngày 21/11/2014 của Quốc hội) để bảo đảm sự tương thích với Luật Phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019 và tương đồng giữa giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy với đường hàng không.

Năm là, tăng cường các biện pháp phòng ngừa xã hội, khuyến khích các gia đình, người điều khiển phương tiện tham gia giao thông sử dụng các dụng cụ để kiểm tra nồng độ cồn trong máu và trong hơi thở trước khi tham gia giao thông; chú trọng hoạt động tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của người tham gia giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không, nhất là thông qua các vụ việc vi phạm đã bị xử lý để cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe trên tinh thần “đã uống rượu bia thì không điều khiển phương tiện giao thông”./.

TS. Đỗ Xuân Lân

Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam


[1] Trước đó là Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[2] Trước đó là Điều 208 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[3] Trước đó là Điều 212 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[4] Điều 263 và Điều 264 trước đó là Điều 205 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[5] Điều 270 và Điều 271 trước đó là Điều 211 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[6] Điều 275 và Điều 276 trước đó là Điều 215 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[7] Trước đó là Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[8] Xem: Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm