Hợp đồng thông minh (HĐTM) là kết quả ứng dụng của Blockchain trong các giao dịch thương mại. Dựa trên cơ chế tự động và phi tập trung, HĐTM giúp cho các bên tham gia có thể giao kết ở bất cứ nơi đâu và vào bất kỳ thời điểm nào, không cần bên trung gian, giúp giảm bớt chi phí và tiết kiệm thời gian. Một số quốc gia như Ý, Belarus và một số bang ở Mỹ đã thừa nhận giá trị pháp lý và chuẩn hóa các quy định về HĐTM trong hệ thống pháp luật của mình. Tuy nhiên, một số quốc gia khác lại không thừa nhận việc sử dụng HĐTM vì cho rằng cơ chế áp dụng không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại của quốc gia đó. Tại Việt Nam, giá trị pháp lý của HĐTM chưa chính thức thừa nhận dù cho một số quy định trong pháp luật đã gián tiếp thừa nhận các giao dịch xác lập bằng hình thức hợp đồng này. Điều này đã gây ra nhiều cản trở cho các bên giao kết HĐTM tại Việt Nam.
1. Cơ chế giao kết hợp đồng thông minh trên nền tảng Blockchain
HĐTM là một đoạn mã chạy trên một hệ thống phi tập trung (Blockchain), cho phép tạo ra các giao thức tự động không cần cho phép (Permissionless). Mã này chứa những điều khoản và yêu cầu của giao kết, thông thường câu lệnh trong HĐTM được viết theo cấu trúc “nếu ... thì ...”. Sau đó, chúng được lưu trữ và chạy trên mạng Blockchain để tự vận hành theo yêu cầu của các bên liên quan. Sự kiện xảy ra hoặc hành động được thực hiện theo điều khoản của hợp đồng sẽ được ghi lại trên Blockchain và tự động thực hiện theo điều khoản của hợp đồng.
Trước tiên, các điều khoản trong hợp đồng sẽ được thể hiện dưới dạng ngôn ngữ lập trình và được mã hóa bởi các lập trình viên trên hệ thống phi tập trung Blockchain. Sau đó, HĐTM sẽ được phân phối và sao chép trên các khóa (node) trong nền tảng[1]. Ví dụ: HĐTM Ethereum chứa đựng mã hợp đồng và hai khóa công khai. Khóa công khai đầu tiên là khóa do người xây dựng hợp đồng cung cấp chứa đựng các quyền và nghĩa vụ của các bên dưới dạng mã lập trình, trong khi khóa còn lại là mã định danh duy nhất cho mỗi HĐTM. HĐTM sẽ được máy tính kiểm soát và tài khoản do người dùng quản lý (Externally Owned Account). Việc giao kết, thực hiện hợp đồng chỉ được kích hoạt bởi tài khoản người dùng để tiến hành tự động các giao dịch trên Blockchain[2]. Cụ thể: Một khách du lịch thuê nhà nghỉ cho một kỳ nghỉ cuối tuần. Số tiền cho việc thuê sẽ được chuyển qua Blockchain. Sau đó, một biên nhận sẽ được lưu trữ trong HĐTM của nhà nghỉ. Nhà nghỉ sẽ gửi cho khách du lịch mật mã để vào nhà nghỉ vào một ngày xác định. Nếu mật mã không đến đúng hạn do hai bên đã thống nhất, tiền sẽ được hoàn trả theo HĐTM. Nếu mật mã đến sớm hơn hạn, tiền và mật mã sẽ được giữ cho đến hạn. HĐTM hoạt động như một chương trình máy tính và được giám sát bởi hàng trăm người, đảm bảo sự an toàn và chính xác trong việc giao nhận.
Một HĐTM chỉ được thiết lập và giao kết khi có đầy đủ các yếu tố về chủ thể, điều khoản được mã hóa trước, xác nhận của các bên tham gia và nền tảng phân quyền. Trong đó, chủ thể hợp đồng là người dùng có quyền và lợi ích tham gia vào giao dịch phải cấp quyền truy cập cho HĐTM để có thể tự động khóa hay mở khóa khi cần thiết. Xác nhận của các bên là yếu tố quan trọng nhằm thể hiện ý chí tự nguyện, sự đồng ý của các bên trong việc giao kết hợp đồng và cho phép nó tự động thực hiện giao dịch. Điều khoản được mã hóa xác định các yêu cầu của mỗi bên khi tham gia hợp đồng trước khi chúng được thiết lập dưới dạng chuỗi mã lập trình để đưa vào hệ thống xử lý. Yếu tố quan trọng còn lại là nền tảng phân quyền. Sau khi HĐTM hoàn tất thiết lập, các mã lệnh sẽ được tải lên Blockchain và phân phối vào các khóa của nền tảng phân quyền.
Khác với hợp đồng truyền thống, điểm mạnh của cơ chế giao kết trong HĐTM là tính tự động, tính bất biến và tính phi tập trung.
Thứ nhất, về tính tự động, các bên trong hợp đồng có thể giao kết qua hệ thống này mà không cần phải biết về thông tin định danh hoặc tin tưởng lẫn nhau. Bên cạnh đó, chi phí hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng cũng giảm đi đáng kể do tính tự động hóa bởi không cần sự can thiệp của bên trung gian. Các bên trao đổi tài sản ảo, thanh toán hàng hóa, dịch vụ, chuyển nhượng cổ phiếu một cách trực tiếp mà không cần đến sự tham gia của con người hay dịch vụ trung gian làm chứng[3]. Một ví dụ thực tế về HĐTM là việc áp dụng nó trong việc bán bất động sản. Khi một người bán muốn bán một lô đất nền, họ có thể sử dụng một HĐTM để giao kết với người mua. Hợp đồng này sẽ xác định giá cả và thời hạn thanh toán, sau khi cả hai bên đồng ý với những điều khoản này, hợp đồng sẽ được lưu trữ trên Blockchain. Khi thời hạn thanh toán đến, tiền của người mua sẽ được chuyển trực tiếp từ tài khoản của họ sang tài khoản của người bán mà không cần sự tham gia của bất kỳ trung gian hay dịch vụ chứng khoán nào. Nếu bất kỳ một trong hai bên không tuân thủ những điều khoản trong hợp đồng, hợp đồng sẽ tự động hủy bỏ.
Thứ hai, về tính bất biến, HĐTM không thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ khi đưa lên nền tảng Blockchain. Hợp đồng có thể tự thực thi mọi thứ khi các điều kiện đạt đủ. Trong trường hợp các điều kiện trong hợp đồng không được thỏa mãn, hợp đồng sẽ dừng lại và không thể thực hiện. Điều này tránh trường hợp một bên tự ý thay đổi các điều khoản hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng[4].
Thứ ba, tính phi tập trung (phân tán) cho phép các điều khoản trong hợp đồng được tiếp cận công khai bởi người tham gia và tăng cường tính minh bạch của giao dịch.
2. Một số rào cản pháp lý trong pháp luật Việt Nam hiện nay đối với hợp đồng thông minh
Về bản chất, HĐTM cũng là sự thỏa thuận của các bên trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ. Vì thế, để hợp pháp hóa HĐTM trong quá trình giao kết và thực hiện các giao dịch, các vấn đề về chủ thể, hình thức hợp đồng, nội dung, yếu tố thỏa thuận, tính bảo mật, rủi ro và giải quyết tranh chấp cần phải được quy định cụ thể. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa xác định rõ ràng các quy phạm phù hợp để điều chỉnh.
Thứ nhất, về chủ thể giao kết HĐTM:
Rất khó xác định năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của các bên trong việc xác lập HĐTM. Điều này là do các thông tin được mã hóa trong giao dịch đều được tự cung cấp bởi người dùng mà không có cơ quan nhà nước quản lý hay người trung gian tham gia kiểm duyệt thông tin trước khi giao kết hợp đồng[5]. Mạng internet là môi trường ảo, việc xác định tư cách chủ thể tham gia giao kết HĐTM mà không qua một đơn vị trung gian là rất khó khi các bên không quen biết nhau. Việc xác định chính xác năng lực chủ thể và thông tin về đối tác giao kết hợp đồng là điều không đơn giản khi một số trường hợp chủ thể giao kết cố tình đưa ra các thông tin sai lệch về độ tuổi, sức khỏe để tự mình tham gia hợp đồng. Yếu tố tự động hóa trong HĐTM là một điểm mạnh về mặt kỹ thuật nhưng cũng chính là rào cản pháp lý trong quá trình giao kết. Đặc tính ẩn danh và phi tập trung của người dùng, cùng với việc không cần sự hỗ trợ của các bên trung gian cho phép các bên thực hiện giao dịch và giao kết hợp đồng mà không cần gặp gỡ nhau, điều này dẫn đến việc xác định năng lực của chủ thể là một thách thức[6].
Bên cạnh đó, việc xác định yếu tố tự nguyện của chủ thể giao kết hợp đồng hoặc các bên giao kết có bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép theo Bộ luật Dân sự năm 2015 là rất khó bởi ý chí các bên thể hiện thông qua mạng và máy tính. Ngoài các bên tham gia giao kết, HĐTM không có sự tham gia của các bên trung gian hỗ trợ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện như tổ chức cung cấp dịch vụ mạng và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử. Các tổ chức này có trách nhiệm gửi, lưu trữ thông tin giao kết, đưa ra những thông tin cần thiết để xác nhận độ chính xác, đáng tin của dữ liệu điện tử trong giao kết. Do đó, các thông tin về điều kiện, ý chí của chủ thể tham gia không được đảm bảo qua các tổ chức này để các bên có thể thực hiện việc giao kết hợp đồng[7].
Thứ hai, về hình thức của HĐTM:
HĐTM hiện nay hoạt động theo cơ chế tự động thông qua các dòng mã lập trình mà không có sự can thiệp của các bên trung gian. Do đó, bản thân HĐTM không hoàn toàn mang những đặc trưng của hợp đồng truyền thống. Một số quốc gia không thừa nhận hình thức của HĐTM như Bangladesh và Trung Quốc. Bangladesh không chấp nhận việc các HĐTM bị ràng buộc về mặt pháp lý và cấm các loại HĐTM như Ethereum. Tại Trung Quốc, Ngân hàng Trung ương đưa ra quy định cấm đề nghị và khai thác Bitcoin trong các giao dịch[8]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số quốc gia đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ HĐTM như là một loại hợp đồng điện tử và có giá trị pháp lý tương đương[9]. Cụ thể, Đạo luật Công nghệ chuỗi khối bang Illinois của Hoa Kỳ xác định HĐTM là hợp đồng được ghi lại dưới dạng tài liệu điện tử có thể được xác minh bằng cách sử dụng chuỗi khối. Đạo luật HB 2417 sửa đổi Luật Giao dịch điện tử Arizona (AETA) quy định bản ghi điện tử, chữ ký điện tử trên hợp đồng và HĐTM được bảo đảm thông qua công nghệ Blockchain và được sử dụng cho các giao dịch liên quan đến giao dịch hàng hóa, cho thuê… được coi là một hồ sơ điện tử và được thi hành theo Luật này.
Tại Ý, Luật về các quy định khẩn cấp liên quan đến hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp và quản lý công quy định HĐTM thông qua việc lưu trữ tài liệu điện tử bằng các công nghệ chứng chỉ phân cấp có hiệu lực pháp lý từ thời điểm của dấu thời gian điện tử, như được quy định trong Điều 41 của Luật định Ủy ban châu Âu số 910/2014 về chứng thực và dịch vụ tin cậy điện tử cho giao dịch điện tử trong thị trường nội bộ và do đó có thể được sử dụng làm bằng chứng trong Tòa án[10].
Trong khi đó, Úc và Vương quốc Anh chỉ cho phép các HĐTM hoạt động trong một số lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, các quốc gia này chưa đề cập cụ thể đến Blockchain hoặc HĐTM trong các văn bản pháp luật hoặc án lệ ngoại trừ trong hướng dẫn của ngành. Tại Úc, HĐTM có tính ràng buộc về mặt pháp lý và có thể thực thi nếu tuân thủ các nguyên tắc luật hợp đồng truyền thống như xem xét và không được tạo ra dưới sự ép buộc[11].
Tại Việt Nam, các quy định hiện hành đã phản ảnh được bản chất của HĐTM có thể được xác định là một loại hợp đồng điện tử mang cơ chế sử dụng hệ thống thông tin tự động nhưng chưa xác định rõ ràng về giá trị pháp lý của loại hợp đồng này trong luật. Cụ thể, loại hợp đồng này có giá trị tương đương như hợp đồng văn bản truyền thống hay không vẫn chưa được quy định trong văn bản luật hiện hành. Theo đó, khoản 1 Điều 34 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2024) đã đưa ra khái niệm chung hợp đồng điện tử thừa nhận tính tự động của hệ thống thông tin không có sự can thiệp của con người và không phủ nhận giá trị pháp lý của nó: Hợp đồng điện tử được giao kết hoặc thực hiện từ sự tương tác giữa một hệ thống thông tin tự động với người hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì không có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng hành động cụ thể do các hệ thống thông tin tự động thực hiện hay vào hợp đồng. Tuy nhiên, Luật Giao dịch điện tử năm 2023 chưa quy định rõ giá trị pháp lý của loại hợp đồng này liệu có giá trị tương đương như hợp đồng văn bản truyền thống trừ các thông báo trong giao kết và thực hiện hợp đồng.
Thứ ba, về nội dung HĐTM:
HĐTM mang tính chất bất biến (immuntable) nên các điều khoản hợp đồng không thể sửa đổi hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện sau khi các dòng lệnh đã được mã hóa. Điều này làm cản trở ý chí thỏa thuận của các bên trong một số trường hợp. Cách duy nhất để tạm khắc phục tình trạng trên chính là các bên phải dự liệu được trước đó khả năng việc thực hiện hợp đồng có thể bị thay đổi và liệt kê ra những trường hợp đó qua việc mã hóa dòng lệnh hoặc phải ký lại một HĐTM khác với một mã lệnh lập trình mới. Điều này đã hạn chế yếu tố thỏa thuận trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng khi có yêu cầu sửa đổi hợp đồng được quy định tại Điều 421 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hơn thế nữa, nếu phát sinh vấn đề không thể giải quyết trong quá trình giao kết, HĐTM cũng không thể bị hủy bỏ, bởi khi các điều kiện trong hợp đồng không được thỏa mãn thì hợp đồng sẽ không được thực thi. Ví dụ: Giữa các nhà đầu tư và doanh nghiệp có thể tự tạo ra một HĐTM trong hoạt động đầu tư. Cụ thể, hợp đồng này có chứa mã lệnh có chức năng giữ toàn bộ số tiền từ nhà đầu tư cho đến khi doanh nghiệp đạt được mục tiêu gọi vốn, từ đó, các nhà đầu tư có thể chuyển tiền của họ và địa chỉ HĐTM này. Nếu dự án gọi vốn được thành công thì số tiền sẽ tự động chuyển vào tài khoản của doanh nghiệp. Nếu dự án gọi vốn không thành công thì số tiền trên sẽ được tự động hoàn trả lại cho các nhà đầu tư. Trong quá trình kêu gọi vốn, cả nhà đầu tư và doanh nghiệp không thể thay đổi, bổ sung, hủy bỏ được bất cứ yêu cầu nào trong các mã lệnh cho đến khi giao dịch hoàn tất.
Thứ tư, về sự thỏa thuận trong giao kết HĐTM:
Mọi đều khoản đều được xây dựng thông qua hệ thống mã được tạo ra bởi các lập trình viên thay vì sử dụng ngôn ngữ thông thường được thỏa thuận bởi các bên. Tuy nhiên, bản chất của pháp luật hợp đồng là sự thỏa thuận, trong đó yêu cầu các giao tiếp hiệu quả về việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ có chủ ý giữa các bên[12]. Việc sử dụng các đoạn mã lập trình phức tạp có thể ảnh hưởng đến việc hiểu và ghi nhớ chính xác thỏa thuận của các bên trong quá trình giao kết và thực hiện. Ngoài ra, quá trình đàm phán, thương lượng không được hình thành giữa các bên tham gia giao kết. Một bên chỉ có thể xem xét các điều khoản lập trình sẵn do bên kia xây dựng và đưa ra quyết định. Như vậy, về cơ bản, ý chí của hai bên vẫn được thể hiện trong quá trình giao kết. Tuy nhiên, quá trình tương tác trong việc thỏa thuận để xác lập quyền và nghĩa vụ với nhau trong hợp đồng không tồn tại.
Thứ năm, về tính bảo mật và rủi ro:
HĐTM được xây dựng trên mã nguồn mở thông qua cơ chế phân tán và phi tập trung (distributed). Điều này giúp cho các giao dịch và thỏa thuận ngày càng trở nên minh bạch hơn. Tất cả mọi người trong mạng lưới khi tham gia cùng một HĐTM đều được tiếp cận các thông tin về giao dịch một cách công khai và như nhau. Do đó, nếu một cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm nghĩa vụ thì HĐTM sẽ tự động vô hiệu và ngăn chặn hành vi vi phạm đó. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, HĐTM có thể đối mặt với những rủi ro về bảo mật thông tin và lỗ hổng mạng lưới từ cơ chế này. Một số cá nhân, tổ chức lợi dụng, thao túng các mã nguồn mở từ HĐTM để truy cập và lấy thông tin khách hàng cho những mục đích sai trái. Thậm chí, nguy cơ dữ liệu giả mạo sẽ được tạo ra kích hoạt không đúng cách hoặc không kích hoạt các điều khoản HĐTM. Điều này có thể dẫn đến những thiệt hại lớn cho các bên trong giao dịch, lập trình viên, hệ thống quản lý thông tin và thậm chí là cơ quan quản lý nhà nước. Hơn thế nữa, trong một số trường hợp các bên muốn quy định các điều khoản về bảo mật, bí mật kinh doanh trong các giao dịch thì việc giao kết không thể được thực hiện trên nền tảng bitcoin.
Thứ sáu, về phương tiện thanh toán:
HĐTM cũng gặp khó khăn khi thực hiện do hiện nay pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận đồng tiền mã hóa là hợp pháp. Trên thực tế, các thành phần cốt lõi của HĐTM sẽ được mã hóa, trong đó, việc thực hiện thanh toán trên hợp đồng cũng thông qua tiền mã hóa mà không có sự xuất hiện của tiền mặt. Các HĐTM phổ biến hiện nay sử dụng tiền ảo như một phương tiện thanh toán như Bitcoin, Ethereum[13]. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có sự công nhận chính thức cho các tài sản ảo và tiền mã hóa nên đã dẫn đến cản trở trong việc thực hiện hợp đồng. Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 chưa xác định tiền điện tử là một loại tài sản. Theo Công văn 5747/NHNN-PC ngày 21/7/2017 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Các hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng các phương tiện thanh toán trái pháp luật có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 150 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng theo Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, tiền mã hóa không được xem một loại hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật, vì thế, chúng không phải chịu thuế. Việc tính thuế trên thu nhập và các giao dịch trên HĐTM khó xác định, dẫn đến việc Nhà nước thất thu thuế và tạo điều kiện cho các hành vi vi phạm pháp luật[14].
Thứ bảy, về giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTM:
HĐTM sử dụng công nghệ chuỗi khối Blockchain để tự động hóa việc thực thi các mã lệnh tại một thời điểm nhất định. Bằng cách này, về mặt lý thuyết, điều này có thể loại bỏ việc tự ý sửa đổi, đơn phương chấm dứt hợp đồng của người tham gia có thể dẫn đến vi phạm các điều khoản hợp đồng và gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, một số tranh chấp vẫn có thể phát sinh như lỗi mã hóa trong HĐTM khiến một số điều khoản bị thay đổi so với dự tính ban đầu của các bên (như số lượng, khối lượng, mức chi phí, thời gian thực hiện giao dịch), lỗi nhập dữ liệu không phù hợp, mất khả năng thanh toán khi giao dịch đang được tiến hành. Những lý do này dẫn đến hợp đồng không thể thực hiện và ảnh hưởng đến lợi ích của bên bị thiệt hại.
Hiện nay, cơ chế về giải quyết tranh chấp về HĐTM vẫn chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam[15]. Thông thường, đối với các hợp đồng truyền thống thì sẽ có các quy định pháp lý có thể được sử dụng làm căn cứ xác định luật áp dụng và thẩm quyền của Tòa án Việt Nam. Theo Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015, các bên trong quan hệ hợp đồng có thể thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng của mình, trừ một số trường hợp do luật quy định. Trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng sẽ được áp dụng. Về thẩm quyền, Điều 469 và Điều 470 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Ngoài Tòa án, các bên còn có thể giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế thương lượng, hòa giải, trọng tài.
Thế nhưng, các quy phạm trên vẫn chưa được áp dụng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTM tại Việt Nam. Trong thủ tục giải quyết tranh chấp, việc sử dụng ngôn ngữ lập trình để xây dựng điều khoản có thể gây khó khăn cho thẩm phán, trọng tài viên và hòa giải viên trong việc đưa ra phán quyết và hiểu bản chất của tranh chấp, bởi họ cần phải có các chuyên gia hỗ trợ họ trong việc giải mã các ngôn ngữ này[16]. Việc xác định phương thức bồi thường thiệt hại trong quá trình giải quyết tranh chấp cũng là một thách thức lớn khi phương tiện thanh toán thông thường của HĐTM là tiền ảo. Vì thế, một câu hỏi đặt ra là hình thức bồi thường nào sẽ được áp dụng khi các bên thực hiện thanh toán thông qua đồng tiền mã hóa? Ngoài ra, tính tự động và bất biến của HĐTM cũng tạo ra cản trở trong hoạt động xét xử của Tòa án khi Tòa án không thể ngăn chặn việc đang thực hiện giao dịch qua áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
3. Một số kiến nghị
Trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, sự phát triển của HĐTM ngày càng gia tăng và tạo ra những cơ hội kinh tế lớn cho các cá nhân, tổ chức. Do đó, Việt Nam cần hoàn thiện và xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng để điều chỉnh HĐTM nhằm đảm bảo sự hợp pháp, hạn chế rủi ro và bảo vệ bên hợp đồng khỏi các thiệt hại có nguy cơ xảy ra.
Thứ nhất, trong Luật Giao dịch điện tử năm 2023 thì HĐTM đã ghi nhận tính tự động của hệ thống thông tin trong hợp đồng điện tử nhưng chưa quy định rõ ràng về giá trị pháp lý của loại hợp đồng này (khoản 1 Điều 34 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 quy định: Hợp đồng điện tử... không bị phủ nhận giá trị pháp lý), “không bị phủ nhận” nhưng cũng không khẳng định là “được thừa nhận”. Điều này vẫn tạo ra sự cản trở trong việc giao kết, thực hiện HĐTM trong thực tế. Pháp luật Việt Nam cần xác định rõ hơn về giá trị pháp lý của HĐTM. Cụ thể: Khoản 1 Điều 34 Luật Giao dịch điện tử năm 2023 nên được điều chỉnh theo hướng thừa nhận HĐTM được xác định có giá trị pháp lý tương đương với hợp đồng truyền thống. Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới như Belarus, Ý và 22 bang của Mỹ đã thừa nhận HĐTM với giá trị pháp lý tương tự như hợp đồng truyền thống[17]. Do đó, việc ghi rõ giá trị pháp lý của HĐTM là một yếu tố cần thiết để tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tự chủ động hơn trong việc áp dụng loại hợp đồng này trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, cần ban hành hướng dẫn cụ thể về điều kiện có hiệu lực của HĐTM.
Về chủ thể, pháp luật cần đưa ra các quy định riêng áp dụng với HĐTM như định danh thông tin của các bên tham gia hợp đồng, xây dựng hệ thống quản lý thông tin và tiêu chuẩn của những người tham gia HĐTM. Bên cạnh đó, các quy định cũng cần phải bảo đảm về ý chí tự nguyện của các bên khi tham gia thông qua các hạn chế có thể thực hiện cơ chế tự động của loại hợp đồng như cần yêu cầu có sự xác nhận, đồng thuận của hai bên trước khi ký kết.
Về mục đích và nội dung, các bên tham gia HĐTM cần nắm chắc, hiểu rõ các điều khoản được mã hóa bằng ngôn ngữ lập trình để bảo đảm an toàn, kể cả trong trường hợp tự thiết lập hay thông qua các lập trình viên cung cấp các mã lệnh[18]. Bản thân các lập trình viên hay tổ chức quản lý và cung cấp dịch vụ về HĐTM phải tự chịu trách nhiệm với hệ thống quản lý thông tin tự động mà mình xây dựng, những rủi ro trong quá trình vận hành của HĐTM từ lỗi kỹ thuật. Do đó, pháp luật Việt Nam cần quy định những chế định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ các bên trong HĐTM để đảm bảo việc giao kết hợp đồng là phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngoài ra, tiêu chuẩn và điều kiện của lập trình viên và tổ chức cung cấp dịch vụ phải được quy định rõ ràng trong luật để tránh những xung đột về trách nhiệm cũng như nâng cao việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng này để tạo ra một hệ thống thông tin tự động an toàn cho các bên tham gia.
Thứ ba, pháp luật cần thừa nhận tiền ảo và vai trò của đồng tiền này trong phương tiện thanh toán của thời đại 4.0. Bộ luật Dân sự năm 2015 cần có những sửa đổi trong định nghĩa về tài sản về việc công nhận tiền điện tử như một loại tài sản mới[19]. Đồng thời, pháp luật kinh tế cần cung cấp các quy định về phương thức quản lý tiền điện tử để việc ứng dụng HĐTM trên thực tế như lĩnh vực thương mại điện tử, thuế và xuất nhập khẩu. Việc quản lý và lưu thông tiền điện tử cần phải thống nhất chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của cơ quan nhà nước để tránh những rủi ro trong quá trình giao dịch của các bên và tránh thất thu thuế cho Nhà nước. Các cá nhân, tổ chức thực hiện việc cung cấp các dịch vụ về HĐTM, tiền ảo như kinh doanh sàn giao dịch tiền điện tử phải đáp ứng các điều kiện về việc thành lập và hoạt động, tuân thủ theo các quy định do Nhà nước ban hành và phải chịu sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, pháp luật cần đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp rõ ràng cho HĐTM. Vấn đề đặt ra cho các bên tham gia HĐTM đó là phương thức giải quyết tranh chấp thông thường có bảo đảm yếu tố nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí cho các bên khi HĐTM hoàn toàn vận hành trên nền tảng Blockchain thông qua các mã lệnh. Trong thực tế, việc giao kết HĐTM khó có thể xác định vị trí chính xác và thông tin của các bên. Khi xảy ra tranh chấp, nếu các bên lựa chọn Tòa án thì việc xác định thẩm quyền Tòa án và luật áp dụng cũng rất khó khăn. Ngoài ra, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại Tòa sẽ cao hơn khi những chuyên gia lập trình cần được thuê để giải thích các điều khoản bằng mã lệnh cho các bên và thẩm phán.
Hiện nay, trên thế giới, trọng tài số được xem là cơ chế phổ biến nhất trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTM bởi tính bảo mật, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và đảm bảo công bằng. Theo đó, khi có tranh chấp, các bên liên quan sẽ sử dụng trọng tài số. Trọng tài số hiện nay được chia thành 02 loại: Dạng đặc biệt (special) và dạng giao công việc (crowdsourced). Nhìn chung, các thuật toán tự động được xây dựng nhằm xác định tranh chấp của các bên khi giao dịch không thể thực hiện được[20]. Từ đó, hệ thống sẽ đưa ra danh sách tự động các trọng tài có chuyên môn và khả năng về tranh chấp của các bên trên thế giới để gợi ý, cho phép các bên thỏa thuận lựa chọn trọng tài phù hợp. Trọng tài số sẽ đưa ra phán quyết về các vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại với bên vi phạm. Một số trọng tài số giao công việc phổ biến hiện nay là OpenBaazar, Kleros, Aragon and Jur.io ở Mỹ đã áp dụng phương pháp này[21]. Pháp luật Việt Nam có thể tham khảo để quy định bổ sung cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài số đối với HĐTM và đưa ra các quy định về quản lý hoạt động của các tổ chức cung cấp dịch vụ này.
ThS. Lê Hồ Trung Hiếu
ThS. Luật sư. Vũ Thị Bích Hải
Trường Đại học Văn Lang
[1]. Chamber of Digital Commerce, 2018, Smart Contracts: Is the Law Ready? Digital Chamber. https://digitalchamber.org/smart-contracts-paper-press/, p.10.
[2]. Gilcrest, Jack & Carvalho, Arthur, 2018, Smart Contracts: Legal Considerations. 2018 IEEE International Conference on Big Data (Big Data).
[3]. Max Raskin, 2017, The Law and Legality of Smart Contract. 1 GEO. L. TECH. REV. 305, https://georgetownlawtechreview.org/wp-content/uploads/2017/05/Raskin-1-GEO.-L.-TECH.-REV.-305-.pdf, p.306.
[4]. Gilcrest, Jack & Carvalho, Arthur, 2018, tlđd.
[5]. https://tapchitoaan.vn/thuc-trang-cac-quy-dinh-phap-luat-ve-hop-dong-thong-minh-va-mot-so-giai-phap-hoan-thien 6947.html, truy cập ngày 29/10/2023.
[6]. Max Raskin, 2017, The Law and Legality of Smart Contract. 1 GEO. L. TECH. REV. 305, https://georgetownlawtechreview.org/wp-content/uploads/2017/05/Raskin-1-GEO.-L.-TECH.-REV.-305-.pdf, p.306.
[7]. https://tapchitoaan.vn/thuc-trang-cac-quy-dinh-phap-luat-ve-hop-dong-thong-minh-va-mot-so-giai-phap-hoan-thien 6947.html, truy cập ngày 29/10/2023.
[8]. Volos A.A, 2020, The Technology of Blockchain and Smart Contract and Their Regulation Under the Conflict of Laws of the European Union, Advances in Economics, Business and Management Research, Vol No.156.
[9]. Luật Minh Khuê, 2022, Một số quy định pháp luật của Mỹ liên quan đến công nghệ chuỗi khối Blockchain và tham khảo cho Việt Nam, https://phapluatbanquyen.phaply.vn/mot-so-quy-dinh-phap-luat-cua-my-lien-quan-den-cong-nghe-chuoi-khoi-blockchain-va-tham-khao-cho-viet-nam-a991.html//, truy cập ngày 29/10/2023.
[10]. Krysenkova N.B, 2021, Smart Contracts In Foreign Legal Space, www.urfac.ru, truy cập ngày 29/10/2023.
[11]. Wendy, Z, 2022, Smart contracts: What lawyers need to know, LSJ Media, https://lsj.com.au/articles/smart-contracts-what-lawyers-need-to-know/#_ftn5, truy cập ngày 29/10/2023.
[12]. Linh, Nguyen, 2022, tlđd.
[13]. Akachain, 2020, Smart Contract trên blockchain thay đổi cách thức hợp tác trong kinh doanh, https://blog.akachain.io/vi/smart-contract-tren-blockchain-thay-doi-cach-thuc-hop-tactrong-kinh-doanh/, truy cập ngày 30/10/2023.
[14]. Tô, M.P, 2020, Pháp luật điều chỉnh HĐTM (smart contract) trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 34.
[15]. Ly, Lưu, 2022, Smart contracts prompt the need to improve the legal system, Vietnam Law and Legal Forum, https://vietnamlawmagazine.vn/smart-contracts-prompt-the-need-to-improve-the-legal-system-48238.html, truy cập ngày 30/10/2023.
[16]. Amy J. Schmitz and Colin Rule, 2019, Online Dispute Resolution for Smart Contracts, Journal of Dispute Resolution, Legal Studies Research Paper Series Research Paper No. 2019-11.
[17]. Sự phát triển của HĐTM ở Việt Nam và một số vấn đề pháp lý đặt ra, Đại học Ngoại Thương, Working Paper 2022.1.5.04 - Vol 1, No 5 FTU.
[18]. Sự phát triển của HĐTM ở Việt Nam và một số vấn đề pháp lý đặt ra, Đại học Ngoại Thương, Working Paper 2022.1.5.04 - Vol 1, No 5 FTU.
[19]. Sự phát triển của HĐTM ở Việt Nam và một số vấn đề pháp lý đặt ra, Đại học Ngoại Thương, Working Paper 2022.1.5.04 - Vol 1, No 5 FTU.
[20]. Amy J. Schmitz and Colin Rule. (2019), tlđd.
[21]. Amy J. Schmitz and Colin Rule. (2019), tlđd.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 393), tháng 11/2023)