Thứ sáu 14/11/2025 00:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015

Ngày 25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, khóa XIII Quốc Hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự. Đây là một trong những đạo luật quan trọng về hoạt động tố tụng theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới quy định về cơ chế, phương thức để yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án nhằm giảm số lượng vụ tranh chấp phải giải quyết tại Tòa án khắc phục tình trạng quá tải trong hệ thống Tòa án. Trong bài viết này, tác giả phân tích những cơ sở của quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án; thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả của hòa giải gắn với quy định về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Theo Luật mẫu của Ủy ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) về hòa giải, thì hòa giải là một trình tự được hiểu là trình tự hòa giải, trung gian hoặc một thể hiện tương tự mà các bên yêu cầu bên thứ ba (hòa giải viên) trợ giúp các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp; hòa giải viên không có thẩm quyền ép các bên tuân theo một giải pháp nào[1].

Hòa giải là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự lựa chọn bên cạnh các phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, trọng tài và Tòa án. Hòa giải mang tính chất tự nguyện, đề cao sự tự do thỏa thuận mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn ngoài Tòa án; một phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do các bên tranh chấp cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột. Việc quyết định giải quyết theo điều kiện, thủ tục nào hoàn toàn do các bên tranh chấp quyết định và hòa giải viên không có thẩm quyền ra quyết định buộc các bên phải tuân theo.

Trong hòa giải, các bên tham gia vào quá trình ra quyết định nên kết quả giải quyết thường đáp ứng yêu cầu của các bên; vẫn giữ được quan hệ tình cảm, quan hệ kinh doanh, quan hệ lao động… Tuy nhiên, theo quy định pháp luật hiện hành, kết quả của quá trình hòa giải và việc thực thi kết quả này trên thực tế phụ thuộc vào thiện chí của các bên tranh chấp, nếu các bên không thiện chí thực hiện thì kết quả hòa giải thành không được triển khai thực hiện, nhưng không có biện pháp cưỡng chế được áp dụng và phải giải quyết bằng phương thức khác. Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới về “Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án” (Chương XXXIII) để tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.

1. Cơ sở của quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án

Thứ nhất, quan hệ dân sự (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm: Quan hệ kinh doanh, thương mại và lao động) là quan hệ được hình thành giữa các chủ thể tham gia có vị trí bình đẳng, tự do ý chí. Các chủ thể có quyền tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận, miễn là thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp dân sự, các bên có quyền thỏa thuận, hòa giải để giải quyết tranh chấp. Mọi thỏa thuận phù hợp với pháp luật của các bên đã đạt được trong hòa giải dù là trước tố tụng hoặc trong tố tụng đều cần được công nhận và bảo đảm thi hành từ Nhà nước và pháp luật.

Thứ hai, lợi ích của hòa giải trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự trước hết là duy trì mối quan hệ hợp tác giữa các bên, tiết kiệm được thời gian và chi phí giải quyết tranh chấp cho các bên; ngoài ra còn giảm tải tranh chấp do Tòa án giải quyết. Để đảm bảo kết quả hòa giải được thực thi trên thực tế, thì cần phải có cơ chế đảm bảo thi hành kết quả hòa giải thành bằng cưỡng chế nhà nước. Do đó, pháp luật cần quy định thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành.

Thứ ba, việc công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án bằng quyết định của Tòa án là một trong bước phát triển của tố tụng dân sự nước ta. Những quy định này sẽ kết nối với các quy định pháp luật về hòa giải như: Hòa giải tại cơ sở, hòa giải lao động, hòa giải thương mại… tạo nên một sự gắn kết trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án và ngoài Tòa án, nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành kết quả hòa giải thành. Đây là sự thể chế hóa chủ trương của Đảng được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”.

Thứ tư, việc đảm bảo khả năng thi hành của thỏa thuận hòa giải thành là bước quan trọng để thúc đẩy giải quyết tranh chấp một cách thân thiện và xây dựng niềm tin của các bên tranh chấp đối với hòa giải, nâng cao vị trí, vai trò của hòa giải trong giải quyết các tranh chấp với tư cách là phương thức giải quyết ngoài Tòa án.

2. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Chương XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án với những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, kết quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải (như kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải cơ sở, Luật Thương mại, Luật Đất đai, Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng...) (Điều 416 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Như vậy, kết quả hòa giải thành vụ việc ngoài Tòa án là đối tượng được Tòa án công nhận.

Thứ hai, việc xem xét công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án do một thẩm phán giải quyết. Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: (i) Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 417 của Bộ luật này; (ii) Thẩm phán ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đối với trường hợp không có đủ các điều kiện quy định tại Điều 417 của Bộ luật này; (iii) Việc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải ngoài Tòa án.

Thứ ba, điều kiện để Tòa án công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án được quy định tại Điều 417 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau: (i) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự; (ii) Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý; (iii) Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận; (iv) Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc người thứ ba.

Thứ tư, quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm (khoản 8 Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Kết quả hòa giải ngoài Tòa án được Tòa án ra quyết định công nhận sẽ được cơ quan thi hành án dân sự thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự.

Nhìn chung, ở các nước đều tồn tại ba loại hòa giải: Hòa giải tư pháp, hòa giải tại cộng đồng dân cư và hòa giải thương mại, dân sự, lao động2. Hòa giải tư pháp là loại hòa giải được cơ quan tố tụng tiến hành trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự. Hòa giải tại cộng đồng là hòa giải những mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật trong cộng đồng dân cư mà ở nước ta gọi là hòa giải ở cơ sở. Hòa giải thương mại đối với các tranh chấp thương mại do các trung tâm hòa giải thương mại thực hiện.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của hòa giải gắn với quy định về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Việc Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung Chương XXXIII quy định về thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án tạo cơ hội lớn trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện các thỏa thuận hòa giải thành ngoài Tòa án, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với công tác hòa giải. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

Một là, các cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực hòa giải thành ngoài Tòa án cần tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn theo ngành dọc về quy định này trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; kiện toàn tổ chức, hoạt động của hòa giải thuộc lĩnh vực quản lý; tổ chức trao đổi kinh nghiệm, giải đáp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Định kỳ tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật có liên quan, kỹ năng hòa giải để nâng cao năng lực cho đội ngũ hòa giải viên.

Hai là, cần nâng cao hơn nữa năng lực hòa giải viên, nhất là hòa giải viên được công nhận theo Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Theo quy định tại Điều 7 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, hòa giải viên ngoài tiêu chuẩn là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải; có phẩm chất đạo đức tốt, uy tín trong cộng đồng dân cư còn có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân và có hiểu biết pháp luật. Khoản 3 Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, thẩm phán được phân công xét đơn có quyền yêu cầu hòa giải viên cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự, nếu xét thấy cần thiết. Hòa giải viên được Tòa án yêu cầu có trách nhiệm trả lời Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.

Hòa giải viên là những người được các bên tin tưởng trao cho nhiệm vụ làm trung gian cho các bên tranh chấp. Với vai trò như vậy, căn cứ các quy định về tiêu chuẩn của hòa giải viên3 và yêu cầu, trách nhiệm cung cấp cho Tòa án tài liệu làm cơ sở cho việc xét đơn yêu cầu của đương sự cho thấy, hòa giải viên cần phải thường xuyên cập nhật, nâng cao hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải.

Ba là, các bên xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật cũng cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong việc gửi đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành. Bên cạnh đó, các bên, nhất là bên có đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành cần phải nâng cao trình độ pháp lý, hiểu biết pháp luật, nhất là khi trực tiếp viết đơn vì theo khoản 1 Điều 418 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì để viết được đơn cầu cần phải có hiểu biết nhất định về pháp luật có liên quan.

Bốn là, khi triển khai thực hiện quy định về Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án có thẩm quyền xét đơn yêu cầu công nhận hòa giải thành các vụ việc hòa giải ngoài Tòa án sẽ phải đảm nhiệm nhiều việc hơn trước, nên đòi hỏi cần phải giải quyết công việc vừa bảo đảm tiến độ theo thời hạn quy định nhưng cũng phải bảo đảm chất lượng công việc.

Năm là, cần sớm ban hành Nghị định của Chính phủ về hòa giải thương mại để tạo cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh về phạm vi, nguyên tắc trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng hòa giải thương mại, quy định về hòa giải viên thương mại, tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại, tổ chức và hoạt động hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam và quản lý nhà nước về tổ chức, hoạt động hòa giải thương mại.

ThS. Phan Hồng Nguyên

Bộ Tư pháp

Tài liệu tham khảo:

[1]. UNCITRAL Model Law on Conciliation, supra note 1, at art. 1(3). Luật mẫu của Ủy ban Liên Hợp Quốc về hòa giải, Điều 1.(3).

[2]. TS. Nguyễn Thị Minh, “ Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam” , Tạp chí Dân chủ và Pháp luật năm 2010 - Số chuyên đề Pháp luật về trọng tài thương mại, tr 120.

3. Điều 7 Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, Điều 4 Nghị định số 46/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tranh chấp lao động, Điều 32 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày 27/10/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi