Thứ sáu 13/06/2025 09:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên thế giới và một số kinh nghiệm đối với Việt Nam

Trong tài liệu “Startups and Unmet Legal Needs” (khởi nghiệp và các nhu cầu pháp lý chưa được đáp ứng) phát hành năm 2016 đã nhận định rằng: “Đối với các công ty khởi nghiệp

1. Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên thế giới
Trong tài liệu “Startups and Unmet Legal Needs” (khởi nghiệp và các nhu cầu pháp lý chưa được đáp ứng) phát hành năm 2016 đã nhận định rằng: “Đối với các công ty khởi nghiệp, các quy định pháp lý hầu như là nội dung chính tại các cuộc họp hàng ngày của công ty, vấn đề thực hiện pháp luật đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp là vấn đề mang tính chất cấp bách. Nhu cầu cần hỗ trợ pháp lý từ thời điểm công ty thành lập là vấn đề đặc biệt quan trọng nếu như không muốn nhận được các hậu quả pháp lý nghiêm trọng, tốn kém chi phí hơn như vấn đề về thuế, sự bất đồng giữa những người sáng lập công ty, chính sách bảo mật, sở hữu trí tuệ… khiến công ty phải chịu rủi ro pháp lý cao”[1]. Theo đó, các công ty khởi nghiệp nên nỗ lực để giải quyết các vấn đề pháp lý sẽ phát sinh, ít có nghiên cứu để chỉ ra rằng các vấn đề pháp lý mà doanh nghiệp sẽ phải đối mặt sớm khi gia nhập thị trường trong và ngoài nước, cũng như nghiên cứu các trở ngại pháp lý mà doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ gặp phải trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.

Bài viết: Small and Medium Scale Businesses and the need for Legal Support (Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ và nhu cầu hỗ trợ pháp lý) của Temitayo Ojo[2] đã nhận định rằng: “Các doanh nghiệp nhỏ thường được gọi là SMEs hay Start-up là những động lực thúc đẩy nền kinh tế của các nước đang phát triển. Thông thường, chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ thường được trang bị đầy đủ khả năng về kỹ thuật để sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tuy nhiên, thường thiếu kỹ năng quản lý và tiếp cận với sự hỗ trợ chuyên nghiệp như quản lý, nhân sự, pháp lý, kế toán, marketing… Các doanh nghiệp nhỏ thường xem xét chi phí để quyết định liệu có nên tham gia các dịch vụ hỗ trợ chuyên nghiệp hay không, vấn đề với cách tiếp cận này là việc không thu hút các chuyên gia thường tỏ ra tốn kém. Trọng tâm của bài viết này là để thảo luận về những lý do chính tại sao các doanh nghiệp nhỏ yêu cầu hỗ trợ pháp lý ngay từ đầu, qua đó, bài viết đã nêu bật một vài trong số những lý do như: (i) Tổ chức kinh doanh hiệu quả, xác lập chủ sở hữu của chủ doanh nghiệp; (ii) Trách nhiệm pháp lý về sản phẩm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và môi trường; (iii) Tuân thủ quy định để đảm bảo mỗi doanh nghiệp nhỏ có vị thế tốt với các luật và quy định hiện hành; (iv) Sở hữu trí tuệ; (v) Ký hợp đồng và tài liệu”[3]. Những vấn đề được đề cập trong các tác phẩm đã phát hành đã nhấn mạnh sự cần thiết phải hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lập luận này cho rằng, hỗ trợ pháp lý luôn luôn là các dịch vụ pháp lý rất tốn kém (điều này không hoàn toàn đúng) nhưng phương án thay thế có thể tốn kém hơn và rủi ro, hậu quả xảy ra còn tốn kém hơn nữa. Thực tế, hỗ trợ pháp lý tốt làm giảm chi phí kinh doanh vì nó hỗ trợ kinh doanh trong việc xác định các lựa chọn tốn kém và cung cấp phương tiện tránh rủi ro pháp lý hoặc hậu quả của chúng gây nên đối với doanh nghiệp.

Trong tác phẩm “Business and Human Rights: A challenge for enterprises?” (Kinh doanh và Nhân quyền: Một thách thức đối với doanh nghiệp?)[4], tác giả có viết rằng: “Trong tài liệu của Hội đồng Liên Hợp quốc về nhân quyền phê duyệt việc tuân thủ các quyền trong hoạt động kinh doanh là có liên quan, đặc biệt là việc giải quyết các doanh nghiệp trong quan điểm về cảnh báo và giúp doanh nghiệp trong suốt quá trình khó khăn của việc tuân thủ nhân quyền. Trên thực tế, nó là ngày càng cấp bách và cần thiết. Các công trình nghiên cứu, dựa trên việc xác định và phân tích hơn 300 trường hợp liên quan đến vi phạm quyền của các doanh nghiệp và các tổ chức tài chính ở cấp độ toàn cầu, bao gồm các chủ đề sau: (i) Hệ thống pháp luật phổ biến phức tạp và có khớp nối bảo vệ nhân quyền doanh nghiệp trong đó bao gồm nhiều điều ước quốc tế khác...; (ii) Vai trò của các tổ chức phi Chính phủ (NGO) dành riêng cho chủ đề này, trong đó kích động lớn các chiến dịch tố cáo và sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp; (iii) Tầm bao phủ của Tòa án quốc gia, cả trong công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển, xuất hiện việc xem xét về hành vi của các công ty lạm dụng việc này, thậm chí bên ngoài lãnh thổ quốc gia của mình; (iv) Tầm quan trọng ngày càng tăng của nhân quyền trong khuôn khổ chính sách và tiêu chuẩn quốc gia, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR)”. Theo đó, việc hỗ trợ nhân quyền cho doanh nghiệp trong kinh doanh (mà trong đó hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là chủ yếu) là việc làm cần được nghiên cứu và cảnh báo thực hiện ở mức độ toàn cầu, nhất là trong các điều ước quốc tế, trong việc hoàn thiện các khuôn khổ chính sách của các nước, bên ngoài lãnh thổ các nước nhằm thúc đẩy kinh doanh phát triển.

Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) đã có các chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ngoài quan tâm đến các hoạt động kinh doanh tại Nhật Bản. Trong cuốn sách “Laws & Regulations on Setting Up Business in Japan” (Luật pháp và quy định về thiết lập kinh doanh tại Nhật Bản) xuất bản lần đầu tiên vào tháng 10/2004 đã cung cấp các kiến thức pháp luật cho các doanh nghiệp nước ngoài quan tâm trong việc thiết lập các hoạt động tại Nhật Bản để thúc đẩy FDI, trong đó cung cấp thông tin về luật, quy định và thủ tục về đăng ký thành lập, thị thực, thuế, quản lý nguồn nhân lực và hệ thống bảo vệ nhãn hiệu và thiết kế[5]. Đây là một trong những hình thức hỗ trợ pháp lý trực tiếp của Nhà nước Nhật Bản đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ở nước ngoài có nhu cầu thiết lập kinh doanh, đầu tư vào Nhật Bản tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan nêu trên để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài trong quá trình xây dựng Nghị định về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm triển khai khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, trong đó, kết quả nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài của Bộ Tư pháp về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại một số nước, trong đó có Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Singapore, Úc, Đài Loan…[6] và các công trình nghiên cứu trên cho thấy, hiện nay trên thế giới quan điểm về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như sau:

(i) Quan điểm của một số quốc gia như Đài Loan, Singapore, Úc… cho rằng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và khu vực, các quốc gia đa số là thành viên của các tổ chức quốc tế, tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương, trong đó thể hiện rõ sự cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nên mọi hoạt động bao gồm hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không thuộc trách nhiệm, nghĩa vụ của quốc gia, vấn đề này thuộc công việc nội bộ của từng doanh nghiệp. Như vậy, theo quan điểm này, doanh nghiệp phải tự tìm hiểu, trang bị kiến thức pháp luật hoặc khi có vấn đề pháp lý xảy trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư của mình thi doanh nghiệp phải chủ động tìm tới các văn phòng luật sư, công ty luật, nơi thực hiện các dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp để ký hợp đồng dịch vụ pháp lý.

(ii) Quan điểm của một số quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Thái Lan… luôn coi doanh nghiệp là đối tượng phục vụ của Nhà nước, vì vậy, song song với những hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, khoa học công nghệ, khởi nghiệp doanh nghiệp… Chính phủ các nước này cần phải thực hiện việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Việc hỗ trợ của Nhà nước được thực hiện dưới những hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp khác nhau, tuy nhiên, nhóm đối tượng thụ hưởng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Các nhận định đó cho thấy, hầu hết các nước thuộc Cộng đồng chung Châu Âu coi việc thông tin và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là trách nhiệm của Nhà nước. Cộng hòa Pháp đã ban hành Luật số 78-753 năm 1978 quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm trả lời chính xác mọi câu hỏi của cá nhân và doanh nghiệp có liên quan đến các quy định pháp luật[7].

Hàn Quốc[8] là một trong số ít những quốc gia phát triển có hệ thống hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hiệu quả nhất trên thế giới. Mô hình tổ chức quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại đây được vận hành đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau (hỗ trợ thông tin pháp lý; tư vấn pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật) phù hợp với mục tiêu của tùng loại hình doanh nghiệp. Bộ máy quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Hàn Quốc nằm rải rác tại các bộ ngành khác nhau, thậm chí tại các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan. Cơ quan quản lý công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (thuộc Bộ Tư pháp Hàn Quốc) gồm các thành viên thực hiện chức năng hỗ trợ tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp. Đối với các vụ việc đơn giản, bộ phận này thực hiện hỗ trợ tư vấn miễn phí thông qua các phương thức như văn bản, telephone, fax, email. Đối với các vụ việc phức tạp, các thành viên thuộc nhóm có nhiệm vụ hỗ trợ, làm đầu mối kết nối giữa cá nhân/doanh nghiệp thông qua mạng lưới luật sư, chuyên gia đăng ký tham gia mạng lưới hỗ trợ; tư vấn lựa chọn luật sư phù hợp, đảm bảo hiệu quả xử lý vụ việc. Trong trường hợp này, Nhà nước hỗ trợ 1/3 kinh phí nhưng tối đa là 2.000 USD/vụ việc tư vấn.

Tại Nhật Bản[9], công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện chủ yếu thông qua tổ chức mạng lưới luật sư (Liên đoàn Luật sư Nhật Bản), cơ quan nhà nước gần như không tham gia trực tiếp vào hoạt động này. Hình thức hỗ trợ chủ yếu là tư vấn pháp luật miễn phí cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hệ thống tổ chức mạng lưới tư vấn được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc “chuỗi mắt xích” tại các địa phương mà “bộ não” điều hành là Liên đoàn Luật sư Nhật Bản. Tại mỗi tỉnh, thành phố, căn cứ vào kết quả khảo sát, báo cáo về thực trạng thi hành pháp luật, Liên đoàn luật sư Nhật bản thành lập các đầu mối triển khai hoạt động tư vấn và tổ chức đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Việc tổ chức tư vấn pháp luật miễn phí cho doanh nghiệp được thực hiện đều đặn hàng tuần, hoặc hàng tháng trên cơ sở nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp địa phương. Nội dung tư vấn được giới hạn trong phạm vi pháp luật liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp như các vấn đề về khởi sự, quản trị doanh nghiệp, vướng mắc trong việc đàm phán, giao kết thực hiện hợp đồng, pháp luật về sở hữu trí tuệ, thương mại, đầu tư. Nội dung, vướng mắc pháp lý được các “mắt xích” tổng hợp, đúc rút thành những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật, gửi Liên đoàn Luật sư Nhật Bản trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét.

Tại Mỹ, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện thông qua Hiệp hội Hỗ trợ doanh nghiệp Liên bang, dưới sự kiểm soát hành chính của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (United States Department of Commerce). Tương tự Nhật Bản về mô hình quản lý, Hiệp hội Hỗ trợ doanh nghiệp Liên bang có các tổ chức chân rết thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các tiểu bang. Tuy nhiên, về hình thức hỗ trợ, Hiệp hội đưa ra các hoạt động khá phong phú: Tổ chức tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp; đại diện cho các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp thành viên tham gia vào quá trình tố tụng, tranh tụng; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp, trong đó tập trung vào các kỹ năng quản lý, xử lý thông tin pháp lý.

2. Đánh giá công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở Việt Nam và kiến nghị

Trên thực tế, ở nước ta, các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên và là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước lẫn các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, số lượng các công trình nghiên cứu về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam không có nhiều. Các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhất là hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ngoài đã xuất hiện từ lâu nhưng chủ yếu là dưới hình thức thông tin pháp lý cho doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh mà không có các hình thức hỗ trợ đặc thù như ở nước ta (giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, xây dựng mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn).

Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm trên thế giới liên quan đến công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, có thể rút ra một số đánh giá và kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:

Một là, về mục tiêu của việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Xác định mục tiêu thực sự của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không chỉ có vai trò quyết định đến sự khác biệt trong pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước, mà còn xác định phạm vi, hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần phải được pháp luật điều chỉnh. Trong nhiều nghiên cứu về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở trong và ngoài nước, vấn đề mục tiêu của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đặt ra còn mờ nhạt. Ở Việt Nam, những phân tích về mục tiêu thực sự của công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Dường như quy định của pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp), Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP ngày 12/10/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp…) chưa có đủ cơ sở để định hình rõ nét cho một chính sách hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thống nhất ở Việt Nam.

Hai là, khái niệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được định nghĩa rõ ràng. Thuật ngữ này được đề cập nhiều trong những năm gần đây, nhất là kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định phê duyệt các Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp, các bộ, ngành và các địa phương đã ban hành các kế hoạch/chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong lĩnh vực và địa bàn nhất định. Tại Việt Nam, Nghị định số 66/2008/NĐ-CP không đưa ra định nghĩa về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà chỉ đưa ra nội dung, hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của Nhà nước. Các công trình nghiên cứu trong nước thời gian qua chưa chú ý đến việc nghiên cứu xây dựng định nghĩa khái niệm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để làm nền tảng lý thuyết cho việc phân tích nội dung và hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Ngoài ra, hiện nay, các công trình nghiên cứu cũng chưa làm rõ sự giống nhau và sự khác nhau giữa “hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” với “trợ giúp pháp lý” và “tư vấn pháp luật”. So với trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có sự khác biệt căn bản về đối tượng thụ hưởng và loại vấn đề được trợ giúp. Đối tượng trợ giúp pháp lý là các cá nhân trong các trường hợp đặc biệt là đối tượng yếu thế trong xã hội thì hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là chỉ đến đối tượng các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trợ giúp pháp lý có thể trợ giúp toàn bộ các vấn đề liên quan đến pháp luật đối với cá nhân trợ giúp[10], thì hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chỉ tiến hành hỗ trợ một số vấn đề về chính sách pháp luật[11] để doanh nghiệp nắm được các quy định pháp luật, trên cơ sở đó tự vận dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.

So với hoạt động tư vấn pháp luật[12] mà luật sư thực hiện, thì hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có sự khác biệt đó là hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là hoạt động dịch vụ công, do Nhà nước thực hiện hoặc đảm bảo thực hiện nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp, doanh nghiệp thụ hưởng không phải trả phí, trong khi đó hoạt động tư vấn pháp luật là loại dịch vụ tư và có thu phí theo quy định của Luật Luật sư.

Ba là, việc xác định đối tượng được Nhà nước hỗ trợ pháp lý đã có nhưng chưa thật sự khoa học. Mỗi quốc gia sử dụng những tiêu chí khác nhau để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tiêu chí doanh nghiệp nhỏ và vừa là tiêu chí phổ biến và có căn cứ nhất để thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở từng quốc gia là khác nhau. Thực tế cho thấy, đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chưa có một định nghĩa hoặc tiêu chí thống nhất về doanh nghiệp nhỏ và vừa, song có điểm chung là tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa căn cứ vào doanh thu và số lao động, được chia thành 03 mức độ quy mô: Doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa trong 03 lĩnh vực của nền kinh tế như nông lâm nghiệp thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ.

Việc xác định tiêu chí doanh nghiệp nhằm xác định rõ đối tượng Nhà nước hỗ trợ pháp lý cho hiệu quả, đúng đối tượng, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, công bằng giữa các doanh nghiệp. Điều 1 Nghị định số 66/2008/NĐ-CP xác định đối tượng hỗ trợ pháp lý của Nhà nước là doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân kinh doanh. Vì thế, các công trình nghiên cứu trong nước cũng mới chỉ tập trung phân tích sự cần thiết hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa là đối tượng cần được hỗ trợ hơn hết. Cách tiếp cận này mang tính cứng nhắc, thiếu chính xác, không đủ để phản ánh chính xác công tác hỗ trợ pháp lý và khả năng tác động đến nền kinh tế trong tương lai, do đó, việc nghiên cứu áp dụng các tiêu chí để xác định đối tượng hỗ trợ pháp lý của Nhà nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là cần thiết.

Bốn là, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được xác định đầy đủ, hợp lý. Các văn bản pháp luật hiện hành không đưa ra định nghĩa đối tượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mà chỉ liệt kê các đối tượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Những đối tượng được liệt kê như vậy là khác nhau giữa các hệ thống pháp luật, giữa các nền kinh tế nhưng nhìn chung là đều mang tính mô tả, minh họa cho suy đoán của các nhà làm luật dựa trên thực tiễn hoạt động nhưng không đủ khả năng bao quát hết những đối tượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên thực tế. Việc liệt kê thường sẽ dẫn tới khả năng bỏ sót đối tượng có cùng bản chất và các hành động được liệt kê. Một số nghiên cứu đã dựa trên các hành động nhằm xây dựng khái niệm đối tượng làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có thể bao quát được tất cả. Ở Việt Nam, Nghị định số 66/2008/NĐ-CP và Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp và các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở các bộ, ngành và địa phương cũng lựa chọn cách liệt kê và mô tả các đối tượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thay vì xây dựng một khái niệm mang tính bao quát và xác định thẩm quyền của các cơ quan có liên quan trong việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Thực tế, các công trình nghiên cứu trong thời gian qua cũng bỏ ngỏ vấn đề này.

Năm là, kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Như trên đã phân tích và chỉ ra pháp luật Việt Nam xây dựng các đối tượng thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo hướng liệt kê và mô tả hành vi, chưa xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan này, do đó, việc nhận diện đối tượng và thẩm quyền thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mang tính hình thức. Vấn đề phân tích để xây dựng các đặc điểm nhận dạng phản ánh được bản chất của hành vi hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Điều này quyết định đến vấn đề quan trọng nữa là kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là lấy từ nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu hay huy động từ các nguồn khác ngoài nhà nước; vai trò của kinh phí trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như thế nào. Các công trình trong nước cũng chưa dành nhiều sự quan tâm thích đáng cho việc nghiên cứu kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở Việt Nam.

Sáu là, các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tuy đã được ghi nhận trong pháp luật nhưng chưa được nghiên cứu một cách thấu đáo. Thực tiễn đều cho rằng, các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mặc dù rất đa dạng nhưng đều hướng tới mục tiêu là triển khai đồng bộ các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo chuyển biến căn bản về nhận thức pháp lý, ý thức pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; tạo lập các điều kiện cần thiết phục vụ hoạt động thực thi pháp luật để giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả; phòng chống rủi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; góp phần nâng cao công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp. Do đó, có thể xếp các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thành 02 nhóm cơ bản căn cứ vào hình thức hỗ trợ. Đó là nhóm hình thức hỗ trợ trực tiếp và nhóm hình thức hỗ trợ gián tiếp. Việc phân biệt các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như trên là hết sức cần thiết do chúng có đối tượng hỗ trợ khác nhau và kết quả tiếp nhận được khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không phân loại các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Các vấn đề về sự cần thiết phải phân nhóm hình thức hỗ trợ pháp lý, tiêu chí phân nhóm cũng chưa được các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm.

Bảy là, các bước trong việc thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được nghiên cứu đầy đủ; chưa chú trọng đến công tác đánh giá kết quả và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Các nghiên cứu đề cập đến việc xác định hành vi hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đều cho thấy, tuy các hệ thống pháp luật khác nhau nhưng đều có các tiếp cận khá giống nhau, theo đó, việc thực hiện các bước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp phải thực hiện từ việc nghiên cứu nhu cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp; đối tượng doanh nghiệp cần hỗ trợ pháp lý; thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; thanh tra, kiểm tra; đánh giá kết quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và việc tiếp nhận các phản hồi của doanh nghiệp về các chính sách, pháp luật để hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp tại Việt Nam.

Tám là, chưa làm rõ nội dung và các nguyên tắc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trong một thời gian dài, hệ thống pháp luật Việt Nam có xu hướng mặc nhiên coi việc thực thi pháp luật là trách nhiệm của doanh nghiệp, doanh nghiêp phải tự tìm hiểu pháp luật và tự xử lý các vấn đề pháp lý trong kinh doanh. Nhà nước không có trách nhiệm gì trong việc thực thi pháp luật của doanh nghiệp. Xu hướng này đang dần dần có sự thay đổi ở nước ta, từ sau những năm 90, việc quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với doanh nghiệp đã được bắt đầu ghi nhận trong các văn bản pháp luật dựa trên khía cạnh kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ghi nhận ngày doanh nhân Việt Nam là 13/10 hàng năm và cũng lần đầu tiên Nhà nước chuyển hướng xác định doanh nghiệp từ đối tượng bị quản lý sang đối tượng được Nhà nước phục vụ. Đặc biệt là, cùng với việc ban hành Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/2016/NQ-CP về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp phải dựa trên các nguyên tắc như: Các biện pháp hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được áp dụng cho mọi loại hình chủ thể kinh doanh, không phân biệt hình thức sở hữu, quy mô kinh doanh và lĩnh vực hoạt động nhưng phải lấy doanh nghiệp nhỏ và vừa làm đối tượng chủ yếu; các biện pháp hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần bảo đảm nguyên tắc Nhà nước không làm thay công việc của doanh nghiệp, mặt khác cũng phải bảo đảm việc hỗ trợ của Nhà nước không làm hạn chế sự phát triển của thị trường dịch vụ tư vấn pháp lý nói chung và thị trường dịch vụ tư vấn pháp lý cho doanh nghiệp nói riêng; nội dung của các biện pháp hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được quy định trên cơ sở có tính đến điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng ngành, từng địa phương trong từng thời kỳ, bảo đảm sự hài hòa giữa trách nhiệm hỗ trợ với nguồn lực thực tế về tài chính, nhân sự của các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương; tăng cường đầu tư, đổi mới các hình thức, phương thức hỗ trợ pháp lý theo hướng xã hội hóa, huy động sức mạnh của các tổ chức xã hội, đoàn thể các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp và công tác hỗ trợ pháp lý.

Trần Minh Sơn

Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp







[1]. Alice Armitage, Startups and Unmet Legal Needs, University of California, Hastings College of the Law 2016, p. 575.

[2]. Xem tại website https://www.linkedin.com/pulse/small-medium-scale-businesses-need-forlegal-support-temitayo-ojo.

[3]. Temitayo Ojo, Small and Medium Scale Businesses and the need for Legal Support, https://www.linkedin.com/pulse/small-medium-scale-businesses-need-forlegal-support-temitayo-ojo.

[4]. Xem tại www.avsi.org.

[5]. Kiwamu Masai, Tomohide Koh, Hiroshi Shindo, Satoshi Nagaura và Tetsuo Tachibana, Laws & Regulations on Setting Up Business in Japan, Invest Japan Department, Japan External Trade Organization, 2004.

[6]. Bộ Tư pháp, 2013, Văn bản số 145/BTP-PLDSKT ngày 16/12/2013 về kết quả khảo sát kinh nghiệm nước ngoài về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và ý kiến của GS. Steve Van Houten (Quốc tịch Canada), cố vấn cao cấp Ngân hàng Phát triển Châu Á - ADB (hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn cho Bộ Tư pháp Việt Nam kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam).

[7]. Chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EC cho Việt Nam (ETV2) - 2007, Báo cáo tại Hội thảo: “Kinh nghiệm một số nước về trợ giúp pháp luật cho doanh nghiệp và nghiên cứu vận dụng tại Bộ Tài chính” ngày 15/11/2007.

[8]. Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp Hàn Quốc, Ban Quản lý Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2010 - 2014.

[9]. Dựa trên kết quả làm việc với Giáo sư Steve Van Houten, Chuyên gia tư vấn Dự án Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Giảng viên Trường Đại học Queen, Canada.

[10]. Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006.

[11]. Từ Điều 7 đến Điều 12 Nghị định số 66/2008/NĐ-CP.

[12]. Điều 22 Luật Luật sư năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2012).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm