Thứ hai 16/06/2025 20:19
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Công tác thống kê thi hành án dân sự hiện nay và một số giải pháp

Tóm tắt: Bài viết phân tích một số bất cập trong các quy định về thống kê thi hành án dân sự; từ đó đưa ra những giải pháp nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự.


Abstract: The paper analyzes some inadequacies of regulations on civil judgment execution statistics, from there, puts forward solutions for further contribution to completion of civil jugment execution regime.

Thống kê là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, có vai trò cung cấp thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân. Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự cũng vậy, thống kê thi hành án dân sự từ lâu đã thực sự là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, có vai trò cung cấp thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ cho Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự địa phương đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách liên quan đến thi hành án dân sự, kịp thời đánh giá, xử lý những khó khăn, vướng mắc, bất cập, hạn chế trong công tác thi hành án dân sự để có biện pháp, giải pháp xử lý kịp thời. Với tầm quan trọng như vậy của công tác thống kê thi hành án dân sự và với mục đích góp phần tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện thống kê thống nhất, đầy đủ, thực chất, hiệu quả hơn trong tất cả các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo đảm lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thi hành án dân sự, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đề cập một số khía cạnh như sau:

1. Bất cập trong các quy định về thống kê thi hành án dân sự

Thứ nhất, hoãn, tạm đình chỉ thi hành án dân sự có được coi là có điều kiện thi hành án hay không? Liên quan đến vấn đề này, theo quy định tại Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự) và Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự thì căn cứ hoãn thi hành án dân sự cần được phân biệt bởi hai trường hợp hoãn khi xuất hiện một số căn cứ theo quy định của pháp luật. Trường hợp thứ nhất, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án chủ yếu vì lý do khách quan khi có căn cứ quy định của pháp luật. Trường hợp thứ hai, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn của người có thẩm quyền kháng nghị. Đối với trường hợp này, Luật quy định rõ về thời điểm tiếp nhận yêu cầu cũng như thời hạn hoãn. Theo đó, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế. Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết. Trường hợp này được hiểu là thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có quyền quyết định hoãn hoặc không. Thời hạn hoãn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị không quá 03 tháng, kể từ ngày ra văn bản yêu cầu hoãn thi hành án. Như vậy, khi đó, đương nhiên cơ quan thi hành án dân sự không được thi hành án. Tuy nhiên, trong các quy định thống kê thi hành án dân sự hiện hành lại không loại trừ trường hợp này, dẫn đến một thực tế việc không được phép thi hành nhưng lại được đưa vào thống kê có điều kiện thi hành. Điều này không phản ánh trung thực, khách quan theo đúng nguyên tắc của thống kê. Nguyên nhân chính của vấn đề là do quy định tại Điều 44a Luật Thi hành án dân sự không xác định những trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án dân sự của người có thẩm quyền kháng nghị. Cùng với đó, theo quy định tại Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự (Thông tư số 08/2015/TT-BTP), nhiều vụ việc mà cơ quan thi hành án không thể tổ chức thi hành án được như hoãn, tạm đình chỉ, lý do khác lại được thống kê là việc có điều kiện thi hành, nên tỷ lệ số việc có điều kiện thi hành trên tổng số phải thi hành cao, ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ giải quyết trên số việc có điều kiện giải quyết của các cơ quan thi hành án. Chính vì vậy, quy định về thống kê thi hành án dân sự cũng không đưa các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ của người có thẩm quyền kháng nghị vào diện án không hoặc chưa có điều kiện thi hành. Điều này đồng nghĩa với việc thống kê cả những vụ việc không có điều kiện thi hành án vào trường hợp có điều kiện thi hành, dẫn đến việc thống kê chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan của sự việc như nguyên tắc của thống kê.

Thứ hai, việc thống kê tiền có điều kiện và chưa có điều kiện thi hành án cũng đang có những vấn đề cần phải nghiên cứu để có giải pháp phù hợp. Theo tác giả Nguyễn Cường: Với cách tính thống kê thi hành án dân sự như hiện nay, thì án có điều kiện đang tính theo nghĩa vụ thi hành án chứ không phải tính theo điều kiện về tài sản, thu nhập thực tế của đương sự. Một đương sự có nghĩa vụ thi hành án 100 tỷ đồng, mặc dù qua xác minh, đương sự này chỉ có tài sản duy nhất trị giá 10 tỷ đồng, thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải xác định có điều kiện 100 tỷ đồng chứ không phải là 10 tỷ đồng như điều kiện tài sản thực tế của đương sự. Ví dụ, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh đang thi hành việc thi hành án giữa Công ty cổ phần Công nghiệp hóa cốc Hà Tĩnh phải trả nợ vay cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Hà Tĩnh 180 tỷ đồng. Mặc dù qua xác minh, thẩm định giá, Công ty cổ phần Công nghiệp hóa cốc Hà Tĩnh chỉ có tài sản duy nhất là nhà xưởng và máy móc trị giá 30 tỷ đồng nhưng do tài sản bán đấu giá không có người mua, cho nên hơn 01 năm nay Cục Thi hành án dân sự vẫn đang phải thống kê vụ việc này là án có điều kiện với số tiền là 180 tỷ đồng. Như vậy, với cách tính thống kê như hiện nay thì số án có điều kiện đang được thống kê “ảo” là rất lớn. Điều này vừa không phù hợp với tình hình tài sản, thu nhập thực tế của đương sự, vừa làm cho việc hoàn thành chỉ tiêu của các cơ quan thi hành án dân sự trở nên khó khăn hơn rất nhiều[1]. Nguyên nhân chính là do theo quy định tại Thông tư số 08/2015/TT-BTP chưa phân định rõ cách thống kê để xác định một vụ việc thi hành án dân sự được coi là có điều kiện một phần hay có điều kiện toàn bộ.

Thứ ba, thời gian tự nguyện thi hành án của đương sự có được coi là thời hạn để xác định người phải thi hành án có điều kiện thi hành và thống kê vào diện án có điều kiện thi hành án hay không? Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì đương sự có một khoảng thời gian là 10 ngày để tự nguyện thi hành án. Trong thời gian này, cơ quan thi hành án dân sự về cơ bản chưa được áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án (chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế khi phát hiện đương sự có dấu hiệu tẩu tán tài sản). Tuy nhiên, về mặt thống kê, thời gian tự nguyện thi hành của đương sự nói trên cũng phải tính vào thời gian tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự. Do vậy, dẫn đến một thực tế, cuối năm khi đến kỳ báo cáo, cơ quan thi hành án dân sự nhận được một bản án, quyết định của Tòa án hoặc nhận được đề nghị thi hành án dân sự từ phía người được thi hành án với số tiền lớn hàng ngàn tỷ đồng, vừa ra quyết định thi hành án, chưa làm bất cứ một biện pháp tác nghiệp nào, nhưng vẫn phải đưa vào diện thống kê án có điều kiện thi hành. Đồng nghĩa với việc công sức cả năm làm việc của chấp hành viên nói riêng và cơ quan thi hành án dân sự nói chung đã về đích, đạt tỷ lệ theo quy định nhưng chỉ một vài việc đã biến cơ quan thi hành án và chấp hành viên từ hoàn thành nhiệm vụ trở thành không hoàn thành nhiệm vụ. Nguyên nhân chính của vấn đề này cũng xuất phát từ các quy định về thống kê. Hệ quả này gây ra áp lực rất lớn không chỉ cho cơ quan thi hành án mà nhất là đối với chấp hành viên, không thể chủ động được xem mình một năm có hoàn thành nhiệm vụ hay không hoàn thành nhiệm vụ. Trường hợp hai năm liền không hoàn thành hoặc hoàn thành nhưng còn hạn chế về năng lực cũng có thể có nguy cơ về tinh giản biên chế.

2. Một số giải pháp

Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi cho rằng, giải pháp quan trọng nhất đó là sửa đổi toàn diện chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự, theo hướng ban hành thông tư mới thay thế Thông tư số 01/2013/TT-BTP và Thông tư số 08/2015/TT-BTP; phạm vi điều chỉnh gồm tất cả các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính và liên quan. Các quy định về thống kê thi hành án dân sự phải đảm bảo tính khả thi, đáp ứng yêu cầu quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan có thẩm quyền; cụ thể, dễ thực hiện và phản ánh được nhiều thông tin nhất; trong đó:

Một là, cần nghiên cứu, quy định rõ hoãn, tạm đình chỉ thi hành án dân sự, nhất là hoãn, tạm đình chỉ thi hành án dân sự theo yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị thì không thể xác định là có điều kiện thi hành. Bởi hoãn, tạm đình chỉ đồng nghĩa với việc buộc cơ quan thi hành án dân sự không được phép làm. Tuy nhiên, để bảo đảm không trái với quy định của Luật Thi hành án dân sự, chúng tôi cho rằng, cần xác định rõ trong thông tư thay thế Thông tư số 01/2013/TT-BTP và Thông tư số 08/2015/TT-BTP theo hướng tách riêng một mục để quy định về những trường hợp cơ quan thi hành án dân sự không được phép làm bên cạnh quy định về không có điều kiện thi hành. Trong trường hợp này, cần thiết thì cũng công khai, minh bạch để các bên có liên quan cùng theo dõi, giám sát.

Hai là, cần nghiên cứu để quy định rõ trường hợp có điều kiện thi hành và có điều kiện thi hành một phần. Quy định này để tránh tình trạng quy định con số ảo, rất dễ dẫn đến dư luận xã hội hiểu chưa đúng bản chất về kết quả thực hiện của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề khó khăn, dễ bị lợi dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ của lực lượng chức năng, do đó, cần đưa ra các tiêu chí thật rõ ràng để xác định rõ khi nào thì được xác định có điều kiện thi hành một phần ở mức độ chính xác nhất. Ví dụ, trên thực tế, các vụ việc đã được đưa ra thẩm định giá, bán đấu giá, lần thứ nhất, lần thứ hai không bán được, có thể thẩm định giá lại lần thứ ba và lấy kết quả thẩm định giá ở lần này để làm căn xác định điều kiện thi hành án. Như vậy, vừa kiểm soát được tình hình, vừa hạn chế được con số ảo mà các cơ quan thi hành án dân sự phải gánh.

Ba là, cần quy định cụ thể, chính xác thời điểm để xác định một vụ việc thi hành án dân sự được coi là có điều kiện thi hành để đưa vào thống kê. Theo chúng tôi, nếu xác định hết thời hạn tự nguyện, cùng với đó xác định khoảng thời gian để cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh theo thời hạn luật định để kết luận người phải thi hành án dân sự có điều kiện thi hành mới đưa vào diện thống kê có điều kiện hoặc không có điều kiện. Tránh tình trạng vụ việc vừa thụ lý thi hành, chưa làm bất cứ tác nghiệp nào thì đều xác định là có điều kiện thi hành, trong khi đó thực tế lại không phải là như vậy. Tuy nhiên, để tránh tình trạng chấp hành viên chậm thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để xác minh thì tăng cường công tác kiểm tra trong nội bộ của cấp trên đối với cấp dưới, kiểm sát của Viện kiểm sát và sử dụng hỗ trợ từ công nghệ thông tin liên quan đến theo dõi quá trình thi hành án của chấp hành viên thông qua phần mềm thống kê thi hành án dân sự.

Ngoài những vấn đề trên, cần cải cách thủ tục hành chính trong thống kê thi hành án dân sự theo hướng giảm số lượng, thời gian báo cáo thống kê. Tránh tình trạng chế độ thống kê thi hành án dân sự hiện nay theo Thông tư số 01/2013/TT-BTP và Thông tư số 08/2015/TT-BTP nêu trên quy định Chi cục, Cục thi hành án dân sự phải báo cáo 19 biểu mẫu theo kỳ 03 tháng, 06 tháng, 09 tháng, 12 tháng. Chấp hành viên phải thực hiện 04 biểu mẫu thống kê hàng tháng từ biểu số 01/TK-THA đến biểu số 04/TK-THA, ngoài ra, hàng quý, chấp hành viên phải thực hiện thống kê thêm biểu mẫu số 05/TK-THA về khoản tiền thu cho ngân sách nhà nước. Số lượng biểu mẫu báo cáo quá nhiều, gây khó khăn, vất vả cho chấp hành viên. Chưa kể tuy nhiều biểu mẫu, chỉ tiêu báo cáo nhưng các quy định trong thông tư hướng dẫn chế độ thống kê thi hành án dân sự chưa thực sự “trúng”. Thông tư chủ yếu chỉ thống kê về hoạt động nghiệp vụ thi hành án dân sự mà chưa điều chỉnh hết các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự (thông báo về tài sản đã kê biên...), vì thế dẫn đến tình trạng nhiều lĩnh vực còn bỏ ngỏ, chưa được tập hợp hóa trong một văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực thống kê về thi hành án dân sự, gây khó khăn cho việc theo dõi, quản lý, chỉ đạo chung về thống kê thi hành án dân sự. Mặt khác, nhiều vấn đề liên quan đến thống kê thi hành án dân sự chưa được quy định, như: Chưa có quy định trình tự, thủ tục, nội dung thẩm tra thống kê thi hành án dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 67 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hoặc về phân tích và dự báo thống kê thi hành án dân sự...

TS. Nguyễn Quang Thái & Phạm Thị Phương Mai

Bộ Tư pháp



[1]. Nguyễn Cường: Những bất cập trong thống kê thi hành án dân sự; nguồn http://baophapluat.vn/nhip-song-hom-nay/nhung-bat-cap-trong-thong-ke-thi-hanh-an-dan-su-331049.html (truy cập ngày 06/11/2018).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm