Chủ nhật 15/06/2025 19:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Giải pháp khắc phục rào cản về thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự

Trong bài viết này, trên cơ sở phân tích, đánh giá những hạn chế, khó khăn trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự, tác giả gợi mở một số đề xuất, giải pháp khắc phục những rào cản nhằm đảm bảo khả năng thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự.


1. Những hạn chế và khó khăn trong việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự

Trong Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 1999) đã có quy định liên quan đến các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), đến Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) có những sự thay đổi để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống nhóm tội phạm này. Cụ thể, pháp luật hình sự hiện hành đã bỏ tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng cụ thể hóa số tiền thu lợi bất chính hoặc giá trị thiệt hại gây ra cho chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan (hoặc chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý) hoặc giá trị hàng hóa vi phạm làm cơ sở để định tội và định khung hình phạt; quy định trách nhiệm của pháp nhân thương mại khi vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cũng như vi phạm quyền sở hữu công nghiệp.

Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 còn sửa đổi, bổ sung một số quy định khác liên quan đến các tội phạm này như tách Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 thành 02 tội danh độc lập[1]; mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền... làm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT.

Bên cạnh sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 2015, các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 cũng được ban hành, tạo khung pháp lý đầy đủ và vững chắc cho việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm quyền SHTT nói riêng. Tuy nhiên, còn những rào cản cơ bản đối với việc thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự, cụ thể:

Một là, hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự. Mặc dù, Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ bản đã khắc phục được những hạn chế trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội xâm phạm quyền SHTT, tuy nhiên qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, trong pháp luật hình sự hiện hành vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc như:

- Trong các tội xâm phạm quyền SHTT, thì tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ được khởi tố khi có đơn yêu cầu của người bị hại. Lợi dụng quy định này, các đối tượng thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp khi bị phát hiện thì sử dụng thủ đoạn thỏa thuận, mua chuộc các chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp để họ không yêu cầu khởi tố vụ án. Điều này, đã tạo ra khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý các hành vi trên, đồng thời không đảm bảo tính răn đe của pháp luật.

- Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn chưa làm rõ dấu hiệu định tội “với quy mô thương mại” trong tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Hiện nay, thuật ngữ “quy mô thương mại” được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được diễn giải khác nhau ở từng quốc gia. Nhìn chung hành vi xâm phạm với “quy mô thương mại” được hiểu là: (i) Các hành vi được thực hiện một cách có chủ ý nhằm mục đích sinh lợi, không kể giá trị của vi phạm; (ii) Hoặc là những hành vi tuy không nhằm mục đích sinh lợi nhưng gây ảnh hưởng lớn đến quyền khai thác tài sản trí tuệ của chủ thể quyền.

Nếu thừa nhận cách hiểu chung như (i) dẫn tới không tính đến giá trị vi phạm thì sẽ truy cứu trách nhiệm tràn lan bất kỳ số lượng, giá trị nào. Còn nếu hiểu theo (ii) thì việc thế nào là gây ảnh hưởng đến quyền khai thác tài sản trí tụệ, lại không cụ thể, khó xác định.

Có quan điểm cho rằng[2], “quy mô thương mại” đã được cụ thể hóa ở Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 29/02/2008 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sư đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT. Đó là đánh giá bằng tiêu chí mức độ từ nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng thể hiện bằng tiêu chí lợi nhận. Như vậy, “quy mô thương mại” được hiểu là “từ mức độ nghiêm trọng trở lên cho đến rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng” và mức độ được xác định bằng lợi nhuận, giá trị gây thiệt hại và giá trị hàng hóa. Tuy nhiên, ngay trong dấu hiệu định tội của hai tội danh này đã đề cập đến khoản “thu lợi bất chính”, “giá trị gây thiệt hại” và “giá trị hàng hóa vi phạm”[3], như vậy thuật ngữ “quy mô thương mại” không thể hiểu theo cách này.

- Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý, nhưng theo quy định của khoản 4 Điều 4 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì nội hàm của quyền sở hữu công nghiệp còn bao gồm: Sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên thương mại và bí mật kinh doanh. Trong các đối tượng này ta thấy rằng, sáng chế, bí mật kinh doanh là những đối tượng rất quan trọng của quyền sở hữu công nghiệp, quyết định vấn đề thành công hay thất bại của các chủ thể kinh doanh. Do đó, các hành vi xâm hại cũng có thể gây ra những hậu quả rất lớn đối với chủ thể quyền sáng chế hoặc bí mật kinh doanh, nhưng vẫn chưa được pháp luật hình sự bảo vệ.

- Chưa có sự phân định rõ ràng giữa tội sản xuất buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong trường hợp đối tượng hàng giả là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Đây chính là trường hợp sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức không thể phân biệt được với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho cùng một loại hàng hóa. Điều này dẫn đến việc một hành vi xâm phạm nhưng thỏa mãn nhiều tội danh, khiến việc áp dụng tùy tiện, không thống nhất và không công bằng trong tố tụng hình sự[4].

Hai là, tình hình tội phạm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ngày càng đa dạng, phức tạp

Đầu tháng 5/2012, cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ đã công bố báo cáo hàng năm về tình hình bảo hộ SHTT ở các nước đối tác của Hoa Kỳ trên thế giới, trong đó đáng lưu ý là Báo cáo đặc biệt số 301 trong 2 năm liên tiếp 2014 và 2015, Văn phòng Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đã xếp Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần ưu tiên theo dõi về tình trạng xâm phạm quyền SHTT.

Theo thống kê từ Chương trình phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm quyền SHTT (Chương trình 168) giai đoạn II[5], trong giai đoạn 2012-2015, các lực lượng chức năng của các Bộ, ngành đã chủ trì, phối hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra 25.966 vụ việc có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT, sản xuất, buôn bán hàng giả. Qua đó, đã xử lý vi phạm hành chính 25.543 vụ việc, trong đó cảnh cáo 68 vụ việc, phạt tiền 23.197 vụ việc với tổng số tiền phạt gần 97 tỷ đồng, khởi tố 381 vụ với 553 bị can, xét xử 55 vụ.

Từ thống kê trên, có thể thấy rằng, các hành vi xâm phạm quyền SHTT ngày càng diễn biến phức tạp, số vụ vi phạm rất lớn. Tuy nhiên, phần lớn các vụ việc đều được xử lý bằng biện pháp hành chính, tỷ lệ vụ việc bị khởi tố và xét xử vụ án hình sự rất ít. Lý do chủ yếu là đa số các hành vi vi phạm chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm, mặt khác biện pháp hành chính dễ áp dụng hơn so với việc áp dụng biện pháp hình sự. Điều này dẫn đến thực trạng các hành vi xâm phạm vẫn gia tăng vì (một phần) chế tài không đủ sức răn đe, không tương xứng với hành vi xâm phạm. Các hành vi phạm tội chủ yếu tập trung vào các tội liên quan đến hàng giả và quyền sở hữu công nghiệp, các hành vi này ngày càng tăng về số lượng và rất tinh vi, phức tạp.

Ba là, cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự còn yếu. Hiện nay, ở Việt Nam có 06 cơ quan thực thi quyền SHTT là công an, Tòa án, quản lý thị trường, hải quan, thanh tra chuyên ngành, Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ của từng ngành trong lĩnh vực thực thi quyền SHTT, nhưng vẫn tồn tại thực tế là các ngành chức năng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chồng chéo nhau. Sự phối hợp liên kết giữa các ngành còn thiếu chặt chẽ, do đó các hành vi xâm phạm không được khởi tố kịp thời hoặc khi bị khởi tố, thì cơ quan điều tra gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ, chứng minh vụ án, chưa kể các vụ án này phần lớn liên quan đến các doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp cũng ít phối hợp để giải quyết. Bên cạnh đó, có nhiều thẩm phán, điều tra viên, ít được đào tạo về SHTT nên gây khó khăn trong việc nhận diện tội phạm, đặc biệt là những trường hợp phạm tội về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, mặt khác chúng ta cũng chưa có tòa án chuyên ngành để thụ lý, giải quyết nên rất khó khăn.

Bốn là, thách thức từ các chuẩn mực cao về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong các hiệp định thương mại quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia nhiều hiệp định thương mại quốc tế có liên quan đến SHTT. Phần lớn các hiệp định này đều đưa ra các tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT ở mức độ cao như: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… đòi hỏi pháp luật SHTT Việt Nam phải hoàn thiện và tương thích. Trong các hiệp định, thì TRIPs được đánh giá là hiệp định toàn diện nhất về SHTT. Theo Điều 61 Hiệp định TRIPs thì “các thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu hàng hoá hoặc vi phạm bản quyền với quy mô thương mại”. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa quy định này trong hai tội danh đó là tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cấu thành tội phạm của hai tội danh khá tương thích với quy định của TRIPs. Bên cạnh TRIPs, Hiệp định EVFTA, Hiệp định CPTPP được xem là những hiệp định rất quan trọng đối với việc hội nhập, phát triển nền kinh tế Việt Nam, đặt ra rất nhiều thách thức về bảo hộ quyền SHTT như bảo hộ về quyền tác giả, về sở hữu công nghiệp, về dược phẩm... Những chuẩn mực cao trong các hiệp định chính là động lực thúc đẩy chúng ta hoàn thiện về pháp luật, về biện pháp thực thi quyền SHTT, nhưng cũng là những thách thức đòi hỏi chúng ta phải vượt qua. Đảm bảo vấn đề thực thi quyền SHTT là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả và sự tương thích trong quy định về SHTT của pháp luật quốc gia với luật quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp hình sự (cho đến nay) vẫn chưa thật sự phát huy hiệu quả áp dụng, chúng ta vẫn thiên nhiều về áp dụng biện pháp hành chính đối với những vi phạm, điều này tạo thành “thói quen” áp dụng và hạn chế mục đích răn đe của pháp luật.

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự

Đứng trước những rào cản và thách thức hiện nay liên quan đến thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự, việc tìm ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và các cơ chế thực thi là rất cần thiết, trong phạm vi bài viết này, tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:

Thứ nhất, giải pháp khắc phục những hạn chế trong các quy định của Bộ luật Hình sự

- Bổ sung thêm vào Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp là sáng chế và bí mật kinh doanh. Như vậy, đối tượng quyền sở hữu công nghiệp của tội phạm này sẽ gồm có: nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, sáng chế và bí mật kinh doanh. Quy định này nhằm mục đích bảo hộ đầy đủ và phù hợp hơn đối với các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp trước các hành vi xâm phạm bị coi là tội phạm.

- Ban hành văn bản hướng dẫn dấu hiệu “với quy mô thương mại” hoặc bỏ dấu hiệu này. Bởi vì theo quy định tại khoản 1 Điều 225 và Điều 226 thì dấu hiệu định tội bao gồm: (i) Hành vi xâm phạm “với quy mô thương mại” hoặc (ii) căn cứ vào “lợi nhuận”, “giá trị gây thiệt hại”, “trị giá hàng hóa vi phạm”[6], như vậy dấu hiệu (ii) đã thể hiện được “quy mô thương mại”. Thực chất, dấu hiệu này được đưa vào từ Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 cho phù hợp với TRIPs, tuy nhiên trong Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 chưa quy định rõ ràng các dấu hiệu (ii) như trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và đến thời điểm trước khi có Bộ luật Hình sự năm 2015, chúng ta vẫn ngầm hiểu thuật ngữ “với quy mô thương mại” như dấu hiệu (ii) mà Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định, nên vô hình chung, dấu hiệu “với quy mô thương mại” hiện nay làm cho điều luật không rõ ràng, thậm chí bị dư thừa.

- Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp nào thì hành vi giả về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý sẽ áp dụng các tội về sản xuất buôn bán hàng giả để giải quyết, trường hợp nào sẽ áp dụng tội xâm phạm sở hữu công nghiệp. Có quan điểm cho rằng[7], trên thực tế, chỉ cần áp dụng Điều 226 là đã bao hàm hết tất cả các dạng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp về nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, trong đó bao gồm cả hành vi giả mạo về hình thức. Tác giả đồng ý với quan điểm này, do đó nếu rơi vào trường hợp này, chúng ta sẽ thống nhất xử lý về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp mà không áp dụng các tội về sản xuất buôn bán hàng giả.

Ngoài ra, để tránh trường hợp người phạm tội mua chuộc hoặc có các thủ đoạn để người bị hại không yêu cầu hoặc rút đơn khởi tố, gây khó khăn cho quá trình tố tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự không nên quy định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là tội danh chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Tội danh này, không chỉ xâm phạm đến chủ thể quyền mà còn xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và đặc biệt xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, do đó Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 càng không nên đưa tội danh này vào.

Thứ hai, cần hoàn thiện cơ chế thực thi quyền SHTT và nâng cao năng lực chuyên môn về SHTT cho đội ngũ chuyên trách. Thực hiện biện pháp này thông qua việc mở các khóa đào tạo, tập huấn chuyên sâu về lĩnh vực SHTT cho kiểm sát viên, điều tra viên, thẩm phán về SHTT. Các cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết các tội phạm phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong giai đoạn điều tra thu thập chứng cứ, chứng minh vụ án. Ngoài ra, những vụ việc nào có dấu hiệu tội phạm thì phải xem xét khởi tố kịp thời để đảm bảo tính răn đe và áp dụng chế tài tương xứng với hành vi xâm phạm, tránh trường hợp “lạm dụng” áp dụng biện pháp hành chính để giải quyết.

Thứ ba, các doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cần chú trọng hơn đến quyền SHTT. Để thực thi quyền SHTT bằng biện pháp hình sự hiệu quả, doanh nghiệp và người tiêu dùng đóng vai trò rất to lớn. Đối với doanh nghiệp phải xác định rõ tầm quan trọng của tài sản trí tuệ, coi tài sản trí tuệ là một bộ phận không tách rời trong khối tài sản nói chung của doanh nghiệp để biết tự bảo vệ tài sản trí tuệ của mình. Để làm tốt vấn đề này, các doanh nghiệp cần tự trang bị cho mình kiến thức về SHTT cũng như xây dựng cơ chế bảo hộ quyền SHTT của doanh nghiệp mình nhằm phòng ngừa và chống lại những hành vi xâm phạm quyền SHTT. Điều này còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Việt Nam tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế có chuẩn mực về quyền SHTT như TRIPs, CPTPP, EVFTA... như tác giả đã đề cập. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức của người tiêu dùng về pháp luật SHTT nói chung và các tội xâm phạm quyền SHTT nói riêng để mọi người hiểu được tác hại của việc xâm phạm quyền SHTT, hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của cá nhân, đơn vị, tổ chức mình, từ đó, người dân sẽ tự giác không sử dụng hàng giả, hàng vi phạm quyền SHTT, đồng thời tích cực tham gia cùng lực lượng chức năng phát hiện đấu tranh và ngăn ngừa tội phạm một cách hiệu quả.

Từ những khó khăn, hạn chế trên đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm giải pháp hoàn thiện và nghiêm túc thực hiện các giải pháp khắc phục những rào cản nhằm đảm bảo khả năng thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự, góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa và chống loại tội phạm này, cũng như tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, thu hút đầu tư và phát triển nền kinh tế của đất nước trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

ThS. Trần Văn Hải

Khoa Luật Hình sự, Đại học Luật - Đại học Huế


[1] Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh tại Điều 157 Bộ luật Hình sự năm 1999 được tách thành hai tội: (1) Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193) và (2) Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194).

[2] Nguyễn Thị Quế Anh (2014), Hiệp định Trips: Những tác động tới quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (Luật học), tập 30, số 2 năm 2014.

[3] Xem thêm khoản 1 Điều 225 và khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì tội danh tại Điều 226 chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại, còn tội sản xuất buôn bán hàng giả (tại Điều 195, 196,197,198) thì không áp dụng quy định này.

[5] Chương trình phối hợp hành động phòng và chống xâm phạm quyền SHTT giai đoạn II (2012-2015) do Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Tài chính; Bộ Công thương; Bộ Công an; Bộ Thông tin và Truyền thông; Tòa án nhân dân tối cao; Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tổ chức.

[6] Quy định này vốn cụ thể hóa từ Thông tư liên tịch số 01/2008/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP.

[7] Nguyễn Thị Quế Anh (2014), Hiệp định Trips: Những tác động tới quy định về các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (Luật học), tập 30, số 2 năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm