Thứ sáu 20/06/2025 08:28
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hôn nhân cùng giới và quyền kết hôn cùng giới theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

Tóm tắt: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015) có nhiều quy định mới so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, sau gần hai năm có hiệu lực trong xã hội vẫn còn nhiều ý kiến, cách hiểu khác nhau về vấn đề hôn nhân cùng giới và quyền kết hôn cùng giới. Bài viết này sẽ cung cấp cho độc giả một số thông tin cơ bản giúp hiểu rõ hơn về vấn đề xã hội còn đang có nhiều tranh cãi này.

Abstract: The Law on marriage and family of 2014 (effective since 1st January 2015) provides many new regulations compared to the Law on marriage and family of 2000. After two years of implementation, there are, however, different opinions and understandings in the society about the issue of same-sex marriage and the right of the same-sex marriage. This article provides readers with some basic information to help them in better understanding of this controversy issue in the society.

1. Hôn nhân và hôn nhân cùng giới

Hôn nhân theo quan niệm truyền thống ở tất cả các quốc gia là mối quan hệ tình cảm, sinh lý giữa một người đàn ông và một người đàn bà phát sinh trong quá trình chung sống với nhau và mối quan hệ này tạo ra quyền lợi và nghĩa vụ giữa hai bên. Thông thường, lễ cưới là sự kiện đánh dấu hôn nhân trên thực tế, còn đăng ký kết hôn là sự kiện pháp lý được Nhà nước công nhận. Như vậy, về mặt truyền thống, hôn nhân là sự chung sống giữa một người đàn ông - chồng và một người đàn bà - vợ (tức là mối quan hệ giữa hai người có giới tính sinh học tự nhiên khác nhau với mục đích tạo lập gia đình, sinh con để duy trì nòi giống - chức năng xã hội cơ bản của gia đình). Ngoài ra, hiện nay trên thế giới vẫn còn tồn tại chế độ hôn nhân đa thê (polygamy - một người đàn ông có nhiều vợ), hôn nhân cùng giới (same sex marriage - hai người đàn ông hay hai người đàn bà có cùng giới tính sinh học[1] kết hôn với nhau). Trong trào lưu dân chủ, tiến bộ hiện nay thì chế độ hôn nhân đa thê ngày càng bị lên án mạnh mẽ và có xu hướng giảm dần, trong khi việc hôn nhân cùng giới ngày càng phổ biến và được ủng hộ, mở rộng. Bằng chứng là kể từ những năm 2000 trở đi, vấn đề hôn nhân cùng giới đã được nhiều nước nhìn nhận lại theo hướng ít khắt khe hơn, cởi mở hơn. Nhiều nước đã có những bước đi đột phá như: Hủy bỏ việc cấm, việc trừng phạt hôn nhân cùng giới và công nhận chính thức vấn đề xã hội này về mặt pháp lý; nhiều nước đang có những sự chuẩn bị về mặt pháp lý để xem xét lại có nên tiếp tục duy trì việc cấm đoán như trước kia.

2. Hôn nhân đồng giới trên thế giới

Tùy thuộc vào đặc điểm truyền thống, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo mà các nước có cách nhìn nhận về vấn đề này khác nhau. Hiện nay, 21 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới chính thức cho phép hôn nhân cùng giới. Năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới cho phép hôn nhân cùng giới và sau đó là một loạt các nước khác: Bỉ (2003), Tây Ban Nha (2005), Canada (2005), Nam Phi (2006), Na Uy (2009), Thụy Điển (2009), Bồ Đào Nha (2010), Argentina (2010), Mỹ[2] (2010), Đan Mạch (2012), Anh và Xứ Wales (2013), Brazil (2013), Uruguay (2013), New Zealand (2013), Pháp (2013), Luxembourg (2014), Scotland (2014), Ireland (2015), Greenland (2015), Phần Lan (2015). Cách thức các nước công nhận và cho phép hôn nhân cùng giới cũng khác nhau. Có nước, việc cho phép được thể hiện thông qua một đạo luật riêng biệt (Pháp[3]); có nước, việc cho phép được thể hiện bằng một phán quyết của Tòa án (Nam Phi); có nước, việc cho phép chỉ giới hạn trong phạm vi địa phương (một số bang ở Mỹ[4]), có nước, hôn nhân cùng giới được cho phép thông qua trưng cầu ý dân[5]. Đám cưới đầu tiên của cặp đôi cùng giới Pháp tại Tòa Thị chính thành phố Montpellier ngày 29/5/2013. Hai người đàn ông là Vincent Autin và Bruno Boileau cùng ký vào sổ đăng ký kết hôn.

Hiện nay, chưa có quốc gia nào ở châu Á thừa nhận, cho phép hôn nhân cùng giới. Ở nhiều nước (đặc biệt là các nước hồi giáo ở châu Phi, Tây Á và Nam Á), thậm chí hôn nhân cùng giới bị xã hội nhìn nhận như một thứ “bệnh hoạn” và bị ngăn cấm, trừng phạt nghiêm khắc[6]. Tuy nhiên về bản chất, hôn nhân là một quyền tự nhiên của con người và thuộc phạm trù quyền con người[7], do vậy việc cấm đoán này được coi là sự giới hạn, thậm chí là sự vi phạm quyền con người. Vì vậy, phong trào đấu tranh ở nhiều mức độ khác nhau (trong đó có Việt Nam) đòi quyền kết hôn cùng giới diễn ra ở nhiều nơi, yêu cầu Nhà nước phải xem xét lại vấn đề xã hội này. Dự báo trong tương lai gần, vấn đề kết hôn cùng giới có xu hướng sẽ được mở rộng ở nhiều quốc gia.

3. Hôn nhân đồng giới theo quy định của pháp luật Việt Nam

Trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của Việt Nam quy định 05 trường hợp bị cấm kết hôn, trong đó có kết hôn giữa những người cùng giới tính[8]. Tuy nhiên, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quy định cấm này đã bị loại bỏ. Điều này thể hiện sự thay đổi trong quan niệm, nhận thức của xã hội ta nói chung, đặc biệt là những nhà làm luật về quyền kết hôn, sự bình đẳng của người đồng tính và các cặp đôi cùng giới[9]. Về mặt pháp lý, hiện nay pháp luật nước ta không còn cấm hôn nhân cùng giới. Tuy nhiên, không cấm không có nghĩa là cho phép các cặp đôi cùng giới có thể đăng ký kết hôn, vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rất rõ: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (Điều 8). Bằng việc “không thừa nhận”, Nhà nước Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm, lập trường của mình về vấn đề này. So với “cấm”, “không thừa nhận” nhẹ nhàng, nhân văn, nhân đạo hơn. Tuy nhiên, “không thừa nhận” ở đây cần được hiểu là Nhà nước không khuyến khích[10] và sẽ không thực hiện việc đăng ký kết hôn cho các cặp đôi cùng giới, do đó, giữa họ không phát sinh quan hệ về quyền và nghĩa vụ nếu chung sống với nhau như vợ chồng.

Hôn nhân thực tế là hiện tượng hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) nhưng không đăng ký kết hôn, thì được Tòa án công nhận là vợ chồng khi ly hôn[11]. Theo kịch bản tương tự, thực tế đã, đang và sẽ xuất hiện tình trạng “hôn nhân cùng giới thực tế”. Điều này có nghĩa là: Tuy không thể đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và không được pháp luật công nhận là “vợ chồng”, nhưng các cặp đôi cùng giới hoàn toàn có thể làm đám cưới hay tổ chức hôn lễ theo phong tục truyền thống, sau đó chung sống với nhau như vợ chồng (tất nhiên việc này Nhà nước không khuyến khích). Các trường hợp kết hôn cùng giới cần lưu ý rằng, bình thường thì sự chung sống giữa họ nếu “suôn sẻ” thì không sao, nhưng nếu trục trặc mà phải chia tay, hay khi một bên mất thì có thể sẽ phát sinh không ít hệ lụy phức tạp, nhất là về tài sản và con cái (có thể là con nuôi), vì hiện nay pháp luật chưa quy định việc giải quyết hậu quả từ việc sống chung của người đồng tính.

Trong hoàn cảnh hiện nay, pháp luật nước ta chưa cho phép kết hôn cùng giới. Tuy nhiên, việc hủy bỏ quy định cấm kết hôn cùng giới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã giúp cộng đồng những người đồng tính và các cặp đôi cùng giới bớt đi phần nào tâm lý bị xã hội, cộng đồng phân biệt đối xử; cho phép họ hy vọng về một sự thay đổi theo chiều hướng tích cực trong tương lai.

TS. Ngô Văn Thìn

Văn phòng Tỉnh ủy Vĩnh Phúc



Tài liệu tham khảo:

[1]. Giới tính sinh học của một người được xác định ngay từ lúc sinh ra và được thể hiện trên giấy khai sinh; giới tính cũng có thể được xác định lại (ví dụ do phẫu thuật thay đổi giới tính) và được pháp luật công nhận (thông qua thủ tục xác định lại giới tính).

[2]. Kể từ 2010 đến nay, đã có 35 bang của Mỹ cho phép kết hôn đồng tính.

[3]. Ngày 23/4/2013, Quốc hội Pháp đã thông qua Luật số no 2013-404 mở đường cho việc thừa nhận quyền kết hôn đồng giới (luật này được Hội đồng bảo hiến ra phán quyết ngày 17/5/2013 là hợp hiến).

[4]. Ở Mỹ, các bang cho phép hôn nhân đồng giới thông qua các hình thức khác nhau: Bằng quyết định của Tòa án tối cao liên bang, bằng Luật của bang hay bằng trưng cầu dân ý tại các bang.

[5]. Ireland trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính thông qua trưng cầu dân ý. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức hôm 22/5/2015 cho thấy 62,1% cử tri Ireland đồng ý thay đổi hiến pháp quốc gia để định nghĩa lại khái niệm hôn nhân. Theo đó, hôn nhân là sự kết hợp giữa hai con người không phân biệt giới tính của họ.

[6]. Hiện ở 10 nước, kết hôn đồng tính có thể bị xử tử: Yemen, Iran, Iraq, Mauritania, Nigeria, Qatar, Ả Rập Xê út, Somali, Sudan, Các Tiểu Vương Quốc Ả rập thống nhất.

[7]. Theo khoản 1 Điều 16 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948: Đến tuổi thành hôn, thanh niên nam nữ có quyền kết hôn và lập gia đình mà không bị ngăn cấm vì lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo.

[8]. Khoản 5, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

[9]. Theo ông Phil Robertson, Phó Giám đốc khu vực châu Á của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch thì “không một quốc gia nào khác trong khu vực Đông Nam Á tiến bộ bằng Việt Nam trong việc chấp nhận hôn nhân đồng tính”. Theo chuyên gia nhân quyền này, tại Thái Lan, những nỗ lực để ra những đạo luật về người đồng tính đã bị đình trệ kể từ ngày giới quân đội đảo chánh vào tháng 5/2014, còn Cam-Pu-Chia, Myanma và Lào thì không đưa vấn đề này vào chương trình nghị sự của Quốc hội. Thậm chí, theo một chiều hướng ngược lại của mình, Philippines đang xem xét luật cấm hôn nhân đồng tính, Indonesia và Malaysia, 2 quốc gia hồi giáo thì vẫn duy trì “quan điểm phân biệt đối xử cố hữu” chống lại người đồng tính, trong khi Brunei thì ra Luật Hình sự mới, phạt đánh roi và tù nặng đối với giới đồng tính (theo RFI- http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150109-viet-nam-vo-dich-chau-a-ve-ton-trong-nguoi-dong-tinh/).

[10]. Điều 36 Hiến pháp năm 2013 quy định: “…Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng…”. Với quy định này, ta có thể hiểu rằng Nhà nước ta vừa không cho phép chế độ đa thê, vừa không chấp nhận hôn nhân đồng tính, vì “vợ”, “chồng” theo cách hiểu truyền thống là “đàn ông” và “đàn bà”.

[11]. Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm