Thứ tư 18/06/2025 12:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hợp đồng cho thuê lại lao động và một số kiến nghị

Cho thuê lại lao động về bản chất là quan hệ ba bên: Bên cho thuê lao động (doanh nghiệp cho thuê lao động), người lao động được cho thuê lại và bên thuê lại lao động (doanh nghiệp thuê lại lao động). Hợp đồng cho thuê lại lao động là văn bản thỏa thuận giữa doanh nghiệp cho thuê và doanh nghiệp thuê lại lao động về việc cho thuê lại lao động, theo đó bên cho thuê lao động cung ứng lao động còn bên thuê lao động phải trả tiền dịch vụ cho bên cho thuê lao động. Hợp đồng cho thuê lại lao động là hình thức pháp lý của quan hệ giữa doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với người lao động tham gia quan hệ cho thuê lại lao động. Bài viết này phân tích các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật lao động hiện hành về hợp đồng cho thuê lại lao động, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.


Để đáp ứng nhu cầu nhân sự của mình thì đơn vị sử dụng lao động có nhiều lựa chọn khác nhau và một trong các hình thức có thể đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp là thông qua quan hệ cho thuê lại lao động. Xét dưới góc độ lao động việc làm, cho thuê lại lao động là quan hệ việc làm đặc thù, quan hệ việc làm ba bên: Bên cho thuê lại lao động - Người lao động - Bên thuê lại lao động. Tương ứng với mỗi mối quan hệ nói trên là các hình thức pháp lý khác nhau. Bài viết này đi sâu phân tích hình thức pháp lý của mối quan hệ giữa doanh nghiệp cho thuê lao động và bên thuê lại lao động - Đó là hợp đồng cho thuê lại lao động.

1. Quy định của pháp luật về hợp đồng cho thuê lại lao động

1.1. Khái niệm hợp đồng cho thuê lại lao động

Hợp đồng cho thuê lại lao động được ký kết giữa bên cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 thì bên cho thuê lao động phải là doanh nghiệp và cho thuê lại lao động là ngành nghề kinh doanh có điều kiện[1].

Pháp luật lao động hiện không có quy định về khái niệm hợp đồng cho thuê lại lao động. Tuy nhiên, xét về bản chất quan hệ, chủ thể và khách thể mà các bên hướng tới trong quan hệ cũng như quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, tác giả đồng tình với khái niệm hợp đồng cho thuê lại lao động như sau: “Hợp đồng cho thuê lại lao động là sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp cho thuê lao động và bên thuê lại lao động về việc cho thuê lại lao động, theo đó, doanh nghiệp cho thuê lao động có trách nhiệm cung ứng lao động còn bên thuê lại lao động có quyền sử dụng lao động và phải trả tiền dịch vụ cho doanh nghiệp cho thuê lao động”[2]. Với khái niệm nói trên, hợp đồng cho thuê lại lao động có những đặc trưng sau đây:

Thứ nhất, theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện nay, chủ thể ký kết hợp đồng cho thuê lại lao động là doanh nghiệp cho thuê lại lao động[3] và bên thuê lại lao động (là bất kỳ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân nào sử dụng dịch vụ cho thuê lại lao động do doanh nghiệp cho thuê lại lao động cung cấp).

Thứ hai, hình thức của hợp đồng cho thuê lại lao động là bằng văn bản. Hợp đồng cho thuê lại lao động là sự biểu hiện bên ngoài của quan hệ dịch vụ cung ứng - sử dụng người lao động thuê lại nên việc quy định hình thức hợp đồng bằng văn bản là cần thiết. Quy định này nhằm minh bạch quyền và nghĩa vụ các bên theo quan hệ cho thuê lại lao động và là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên giải quyết quyền và nghĩa vụ của nhau theo đúng thỏa thuận: Vừa tránh những mâu thuẫn không đáng có xảy ra, vừa có cơ sở bảo vệ quyền lợi các bên khi xảy ra tranh chấp. Đây cũng là nội dung tương đồng với pháp luật cho thuê lại lao động của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản[4].

Thứ ba, nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động không chỉ liên quan đến quyền và nghĩa vụ có tính thương mại giữa hai bên cho thuê và đi thuê lao động mà còn là những cam kết của hai bên về quyền và lợi ích của người lao động. Khi tham gia vào quan hệ thuê lại lao động, người lao động vốn luôn ở vị trí yếu thế hơn trong quan hệ việc làm truyền thống, sẽ rủi ro hơn khi tham gia vào quan hệ thuê lại lao động: Có thể không được bảo đảm tương xứng về tiền lương, an sinh xã hội; không được tiếp cận với các phúc lợi, đào tạo, thăng tiến trong nghề nghiệp; có thể không được bảo đảm các quyền cơ bản tại nơi làm việc khi mà người lao động ký hợp đồng lao động với một bên, nhưng lại làm việc cho một bên thứ ba. Do đó, pháp luật về thuê lại lao động đưa ra nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản tại nơi làm việc của người lao động thuê lại và ràng buộc trách nhiệm này với cả hai bên cho thuê và thuê lại lao động.

1.2. Nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động

Về nội dung, hợp đồng cho thuê lại lao động nhằm xác lập quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp cho thuê lại lao động với bên thuê lại lao động nhưng lại gắn liền với quyền, lợi ích của người lao động cho thuê lại. Chính vì vậy, cho dù tên gọi có thể khác nhau nhưng pháp luật các nước khi quy định về nội dung hợp đồng giữa bên cho thuê lao động và bên thuê lao động đều lưu ý đến việc bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động cho thuê lại (Luật Lao động phái cử của Nhật Bản (Điều 26), Luật Bảo vệ lao động phái cử của Hàn Quốc (Điều 20), Luật về hợp đồng lao động của Trung Quốc (năm 2007)[5]).

Pháp luật cho thuê lại lao động Việt Nam[6] quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng cho thuê lại lao động bao gồm:

- Nơi làm việc, vị trí việc làm cần sử dụng lao động thuê lại, nội dung cụ thể của công việc, yêu cầu cụ thể đối với người lao động thuê lại;

- Thời hạn thuê lại lao động; thời gian bắt đầu làm việc của người lao động;

- Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động tại nơi làm việc;

- Nghĩa vụ của mỗi bên đối với người lao động.

Hợp đồng cho thuê lại lao động không được có những thỏa thuận về quyền, lợi ích của người lao động thấp hơn so với hợp đồng lao động mà doanh nghiệp cho thuê lại đã ký với người lao động.

2. Thực trạng thực hiện hợp đồng cho thuê lại lao động

Theo báo cáo hoạt động cho thuê lại lao động của Cục Quan hệ Lao động - Tiền lương, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì 100% hợp đồng cho thuê lại lao động đã ký kết bằng văn bản; các nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động đã thể hiện chi tiết, đầy đủ các nội dung pháp luật quy định[7]. Điểm tích cực là hợp đồng cho thuê lại lao động đã thể hiện nội dung quy định về trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của người lao động thuê lại với bên thuê lại lao động: Đa số thỏa thuận doanh nghiệp cho thuê lại lao động chịu trách nhiệm thanh toán mọi chi phí cho người lao động trước, sau đó xem xét nguyên nhân và lỗi xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để thỏa thuận với bên thuê lại lao động mức chi trả. Nhiều bản hợp đồng cho thuê lại lao động có ghi nhận nội dung và hình thức xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện như: Trường hợp người lao động không đáp ứng được yêu cầu công việc hoặc có thái độ không phù hợp trong môi trường làm việc tại doanh nghiệp… Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện hợp đồng cho thuê lại lao động cũng phát sinh một số bất cập về quy định cũng như áp dụng pháp luật. Cụ thể:

Một là, nội dung hợp đồng cho thuê lại lao động liên quan đến mối quan hệ của hai chủ thể là doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 không quy định xác định rõ những nội dung liên quan đến mối quan hệ của hai chủ thể này dưới góc độ quan hệ thương mại, dịch vụ như: Cung ứng dịch vụ đó là cho bên thuê lại lao động hoạt động trong lãnh thổ Việt Nam hay ở nước ngoài; giá dịch vụ; thời hạn thanh toán dịch vụ…

Hai là, không quy định về việc ký kết, thực hiện, chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động và cơ chế xử lý khi xảy ra khi có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng cho thuê lại lao động.

Ba là, pháp luật hiện hành chưa có quy định về hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu: Trường hợp nào được coi là vô hiệu? Thẩm quyền tuyên bố vô hiệu thuộc về cơ quan nào? Xử lý trách nhiệm của mỗi bên, nhất là với quyền lợi của người lao động trong thời gian làm việc theo hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu là ra sao?...

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê lại lao động

3.1. Về nội dung hợp đồng cho thuê lại lao động

Dưới góc độ lao động - việc làm, thì việc Bộ luật Lao động năm 2019 chỉ quy định những nội dung liên quan đến mối quan hệ lao động giữa người lao động với các bên còn lại của quan hệ cho thuê lại lao động cũng có thể giải thích được. Tuy nhiên, về bản chất hợp đồng cho thuê lại lao động là hợp đồng thương mại, dịch vụ và với doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động thì nội dung kinh doanh trong lĩnh vực này được quan tâm đặc biệt. Do đó, dưới góc độ thương mại, dịch vụ thì nội dung hợp đồng cho thuê lại lao động cần bổ sung nội dung về phí dịch vụ cho thuê lại lao động như: Mức phí, phương thức thanh toán, trách nhiệm nếu vi phạm. Trên thực tế, phí dịch vụ là vấn đề mà bất kỳ doanh nghiệp cho thuê lại lao động và bên thuê lại lao động nào cũng đặc biệt quan tâm. Vì vậy, việc không quy định cụ thể về phí dịch vụ trong hợp đồng cho thuê lại lao động như hiện nay đã dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở pháp lý trong việc bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp cho thuê lại lao động và xác định trách nhiệm của bên cho thuê lại lao động. Đây cũng là vấn đề cần được thỏa thuận rõ ràng nhằm khắc phục tình trạng chậm trả lương do bên thuê lao động chậm trả phí thuê lao động nên doanh nghiệp cho thuê lại lao động không có đủ tiền để trả lương cho người lao động đúng hạn.

3.2. Về hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu

Để có cơ sở giải quyết khi hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu thì cần có quy định về căn cứ xác định hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu từng phần hoặc toàn bộ. Trên cơ sở quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về hợp đồng lao động vô hiệu[8], có thể quy định về hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu như sau:

- Quy định về các trường hợp hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu toàn bộ: (i) Toàn bộ nội dung của hợp đồng cho thuê lại lao động trái pháp luật; (ii) Người ký kết hợp đồng cho thuê lại lao động không đúng thẩm quyền; (iii) Vi phạm các trường hợp không được cho thuê lại lao động theo quy định của pháp luật; (iv) Doanh nghiệp cho thuê lại lao động hoạt động không có giấy phép lao động.

- Hợp đồng cho thuê lại lao động vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm pháp luật nhưng không ảnh hưởng đến các phần còn lại của hợp đồng.

Việc xử lý hợp đồng cho thuê lại lao động cần áp dụng các quy định chung của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, nếu liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động thì cần ưu tiên bảo vệ người lao động.

3.3. Về các trường hợp chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động

Việc quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động là rất quan trọng để xác định hậu quả pháp lý của các chủ thể, đặc biệt đối với NLĐ thuê lại. Các trường hợp chấm dứt có thể bao gồm:

- Hết hạn hợp đồng cho thuê lại lao động;

- Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động;

- Bên thuê lại lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; bên thuê lại lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động;

- Doanh nghiệp cho thuê lại lao động chấm dứt hoạt động;

- Doanh nghiệp cho thuê lại lao động bị thu hồi hoặc không được gia hạn, cấp lại giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động.

Trên cơ sở các trường hợp chấm dứt nói trên nhằm xác định việc chấm dứt hợp đồng cho thuê lại lao động là đúng hay trái pháp luật, từ đó xác định quyền, trách nhiệm các bên khi chấm dứt hợp đồng - đặc biệt là quyền lợi của người lao động tham gia quan hệ cho thuê lại lao động.

PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí
Đại học Luật Hà Nội



[1]. Khoản 2 Điều 52, Điều 54 Bộ luật Lao động năm 2019.

[2]. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Lao động tập 2, PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và PGS.TS. Trần Thị Thúy Lâm (đồng chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, năm 2021, tr. 44.

[3]. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và pháp luật nhiều nước quy định bên cho thuê lao động không nhất thiết là doanh nghiệp (Điều 1 Công ước 181 về các cơ quan dịch vụ việc làm tư nhân, 1997 của ILO; Anh, Thụy Sỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc…).

[4]. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tài liệu tham khảo pháp luật lao động nước ngoài, Nxb. Lao động - Xã hội, năm 2010, tr. 59, 60.

[5]. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Nxb. Lao động - Xã hội, Tài liệu nghiên cứu cho thuê lại lao động, năm 2011, tr. 334, 418, 446.

[6]. Khoản 2, 3 Điều 55 Bộ luật Lao động năm 2019.

[7]. Theo báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội kiểm tra một số công ty hoạt động cho thuê lại lao động quy mô lớn như Công ty cổ phần L&A, Công ty Harvey Nash, Công ty cổ phần kết nối nhân tài -Talent net, năm 2019.

[8]. Điều 49 đến Điều 51 Bộ luật Lao động năm 2019.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm