Thứ ba 01/07/2025 12:18
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Huy động vốn của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh bất động sản

Tóm tắt: Bài viết phân tích về hình thức huy động vốn trong hoạt động kinh doanh bất động sản và những bất cập hiện hành, qua đó, đề xuất hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay.

Tóm tắt: Bài viết phân tích về hình thức huy động vốn trong hoạt động kinh doanh bất động sản và những bất cập hiện hành, qua đó, đề xuất hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản ở Việt Nam hiện nay.

Abstract: The article analyzes the form of capital mobilization in real estate business and current shortcomings, thereby, proposing to improve the law, improve the efficiency of the organization to implement the law on handling violations in the field of real estate business in Vietnam today.

1. Huy động vốn trong hoạt động kinh doanh bất động sản

Trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản huy động vốn bằng cách phát hành, chào bán chứng khoán, trái phiếu, liên doanh, liên kết nhằm thực hiện các hoạt động đầu tư tạo lập, mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản; thực hiện dịch vụ môi giới bất động sản; dịch vụ sàn giao dịch bất động sản; dịch vụ tư vấn bất động sản hoặc quản lý bất động sản nhằm mục đích sinh lời. Trên thương trường, nguồn vốn phản ánh năng lực kinh doanh và ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, khả năng huy động vốn còn thể hiện uy tín và mức độ tin cậy của khách hàng đối với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Việc chủ đầu tư có bàn giao được bất động sản cho khách hàng theo đúng tiến độ ghi trong hợp đồng hay không phụ thuộc vào vốn chủ sở hữu và vốn huy động của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Với tiềm năng vốn và khả năng huy động lớn, doanh nghiệp có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả, vừa giữ chữ tín vừa nâng cao vị thế của doanh nghiệp.

Như vậy, huy động vốn giải quyết vấn đề vốn cho chủ đầu tư kinh doanh bất động sản, giải quyết vấn đề nhà cho người dân, đem lại lợi nhuận cho các tổ chức, ngân hàng. Để tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải chú trọng tới việc tăng trưởng nguồn vốn, nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn từ nhiều hình thức khác nhau.

2. Các hình thức huy động vốn của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản

2.1. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản sử dụng vốn thuộc chủ sở hữu để làm vốn thực hiện dự án

Đây là nội dung đáng chú ý được Chính phủ thông qua tại Nghị định số 02/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản. Trước đây, Chính phủ yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã và phải có vốn pháp định từ 20 tỷ đồng trở lên. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay, đối với trường hợp nhà đầu tư được lựa chọn làm chủ đầu tư dự án bất động sản theo quy định của pháp luật thì nhà đầu tư đó phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên. Trong đó, việc xác định vốn chủ sở hữu căn cứ vào kết quả báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất hoặc kết quả báo cáo kiểm toán độc lập của doanh nghiệp đang hoạt động (được thực hiện trong năm hoặc năm trước liền kề); trường hợp là doanh nghiệp mới thành lập thì xác định vốn chủ sở hữu theo vốn điều lệ thực tế đã góp theo quy định của pháp luật.

2.2. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản huy động vốn thông qua hình thức góp vốn, hợp tác đầu tư, hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên kết của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

Để đưa vốn đầu tư được sử dụng đúng mục đích thì pháp luật quy định yêu cầu doanh nghiệp phải có dự án nhà ở đã được phê duyệt và đã khởi công xây dựng nhà ở. Quy định này nhằm mục đích duy trì tính liên tục của dự án và nguồn vốn đầu tư sẽ được sử dụng đúng mục đích. Để có vốn kinh doanh, doanh nghiệp tìm cách “lách luật” huy động vốn thông qua hình thức hợp đồng góp vốn mà thực chất là biến tướng của dạng hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đây là hình thức phổ biến mà các doanh nghiệp áp dụng, đối tượng giao dịch của loại hợp đồng này là quyền sử dụng đất và nhà ở. Nhà đầu tư sử dụng hình thức này khi bất động sản chưa đủ điều kiện tham gia giao dịch. Thông qua việc ký kết hợp đồng, doanh nghiệp vừa “lách” được luật, vừa chiếm dụng vốn của khách hàng. Để hạn chế tình trạng nêu trên, Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở (Nghị định số 99/2015/NĐ-CP) được ban hành quy định doanh nghiệp được phép huy động vốn thông qua hợp đồng, văn bản góp vốn hay hợp đồng, văn bản hợp tác khi đáp ứng điều kiện đã có dự án nhà ở được phê duyệt, đã thực hiện khởi công công trình xây dựng công trình nhà ở và thông báo cho Sở Xây dựng nơi có dự án biết trước ít nhất 15 ngày tính đến ngày ký hợp đồng.

2.3. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản huy động vốn bằng vốn vay từ tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính đang hoạt động tại Việt Nam.

Đây là hình thức chủ yếu, mang tính truyền thống của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản. Thực tế cho thấy, đa phần nguồn vốn kinh doanh bất động sản là nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Như vậy, có thể nói, nguồn vốn kinh doanh bất động sản của doanh nghiệp phụ thuộc khá lớn vào ngân hàng.

Ưu điểm của hình thức huy động này là nguồn vốn mang tính tập trung ở một đầu mối là ngân hàng. Khi huy động doanh nghiệp có thể huy động với số lượng lớn, các thủ tục vay vốn được gói gọn trong một lần, không bị ràng buộc nhiều về quyền và nghĩa vụ, lợi ích trong hoạt động kinh doanh của mình. Doanh nghiệp thực hiện vay vốn từ các ngân hàng thì chỉ phải trả lãi và gốc khi đến hạn, còn quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn mang tính độc lập.

Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản cũng có thể huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu thông qua các tổ chức tài chính. Đây là hình thức huy động vốn hoàn toàn mới và đã được pháp luật thừa nhận, tạo thêm kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp. Thông qua kênh huy động vốn này, doanh nghiệp có thể trực tiếp tiếp cận với nguồn vốn của người dân với lãi suất thấp, thu hút được nguồn vốn trung và dài hạn cho quá trình đầu tư của mình.

Doanh nghiệp huy động vốn bằng hình thức này đương nhiên phải đáp ứng các điều kiện theo thỏa thuận trong hợp đồng vay vốn hoặc theo quy định về phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu tuân thủ các điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 của Chính phủ quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

2.4. Đối với trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản huy động vốn thông qua tiền mua, tiền thuê mua, tiền thuê nhà ở trả trước theo hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai

Với những hạn chế của hai hình thức huy động vốn thông qua việc ký kết hợp đồng vay vốn với các tổ chức tín dụng và phát hành trái phiếu như đã nêu ở trên, thì doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn các hình thức huy động vốn khác còn lại mà mình được phép thực hiện như: Ký hợp đồng góp vốn, hợp tác kinh doanh, hợp đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai với các tổ chức, cá nhân. ưu điểm của các hình thức này là doanh nghiệp được trực tiếp thỏa thuận với khách hàng và vị thế của doanh nghiệp lúc nào cũng ở vị trí chủ động, khác với vay vốn tại ngân hàng, các doanh nghiệp khó có thể lựa chọn mức lãi suất mà mình muốn vay mà thay vào đó là sự ấn định một mức lãi suất do ngân hàng đưa ra và phải có tài sản để thế chấp.

Ở hình thức này, doanh nghiệp sẽ trực tiếp chia sẻ lợi nhuận với người dân thông qua cách thức bằng tiền, cổ phiếu hoặc sản phẩm là nhà ở. Tuy nhiên, doanh nghiệp chính là người soạn thảo hợp đồng. Hơn nữa, với tình trạng thiếu thông tin về dự án của doanh nghiệp, quy định của pháp luật chưa thực sự rõ ràng cộng với sự “nhẹ dạ cả tin” của người dân chính là cơ hội để một số doanh nghiệp đưa ra hợp đồng huy động vốn, hợp đồng mua bán nhà hình thành trong tương lai với điều khoản có lợi cho mình, vừa có được vốn vừa đẩy rủi ro về phía khách hàng. Như vậy, vốn của khách hàng vô hình chung bị chiếm dụng trong một thời gian dài và khi phát sinh tranh chấp, nếu hợp đồng bị vô hiệu thì khách hàng cũng chỉ nhận được số vốn ban đầu đó, thậm chí, trong nhiều trường hợp còn không được nhận đủ.

2.5. Các doanh nghiệp được phép huy động vốn thông qua hình thức nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất từ các tổ chức, cá nhân

Điều 167 và Điều 174 Luật Đất đai năm 2013 quy định, các tổ chức, cá nhân được dùng quyền sử dụng đất để tham gia góp vốn. Như vậy, quy định này đã tạo thêm một kênh huy động vốn mới cho doanh nghiệp. Từ đó, doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội để lựa chọn các hình thức huy động vốn phù hợp, đồng thời mở rộng thêm quyền năng của chủ thể sử dụng đất và tạo ra sự sôi động cho thị trường bất động sản. Đây chính là cơ sở quan trọng góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn mà doanh nghiệp gặp phải. Điều kiện, trình tự, thủ tục góp vốn, xóa đăng ký góp vốn theo hình thức này được quy định một cách đầy đủ trong Luật Đất đai năm 2013, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể áp dụng.

3. Xử phạt vi phạm pháp luật trong việc huy động vốn của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản

Các hành vi bị cấm khi doanh nghiệp kinh doanh bất động sản huy động vốn được quy định tại khoản 4 Điều 19 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP, cụ thể:

Thứ nhất, huy động vốn trái phép của chủ đầu tư là việc chủ đầu tư khi chưa đủ điều kiện để được huy động vốn đã huy động vốn của khách hàng. Trường hợp này, các hợp đồng ký kết sẽ không được pháp luật công nhận, chủ đầu tư sẽ bị xử phạt vi phạm theo quy định của pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho người tham gia góp vốn.

Thứ hai, chủ đầu tư sử dụng vốn huy động sai mục đích nguồn vốn huy động hoặc chiếm dụng vốn đã huy động hoặc huy động vượt quá số tiền mua, thuê mua nhà ở ứng trước của khách hàng thì phải hoàn lại số tiền đã huy động sai quy định, phải bồi thường (nếu gây thiệt hại) và bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Nếu như doanh nghiệp kinh doanh bất động sản vi phạm các quy định về huy động vốn, sẽ phải chịu mức phạt theo Nghị định số 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng (Nghị định số 16/2022/NĐ-CP), trong đó, quy định mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về kinh doanh bất động sản.

4. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bất động sản

Thực tế đã chỉ ra rằng, khung pháp lý về xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh bất động sản vẫn còn thiếu và yếu, riêng đối với những hành vi vi phạm trong vấn đề huy động vốn thì vẫn còn là khoảng trống, vô hình chung tạo cơ hội cho những sai phạm liên tiếp xảy ra, quyền lợi của bên tham gia đầu tư bị ảnh hưởng nghiêm trọng và làm cho môi trường kinh doanh bất động sản trở nên kém minh bạch và lành mạnh. Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 mới chỉ quy định một cách chung chung như: “Các tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của luật này thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, cần có các giải pháp hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bất động sản theo hướng:

Thứ nhất, cần bảo đảm tính răn đe của pháp luật thông qua các chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực huy động vốn. Nên chăng, cần cân nhắc tới vấn đề xác định một số tội danh đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản khi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Theo quy định tại Nghị định số 16/2022/NĐ-CP thì mức xử phạt các doanh nghiệp chỉ từ 800 triệu đến 01 tỷ đồng, trong khi đó, số tiền mà doanh nghiệp vi phạm là một con số không nhỏ, tổng giá trị có khi lên tới vài trăm tỷ. Nếu đem so sánh mức độ chịu trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp và lợi nhuận mà doanh nghiệp thu về từ hành vi vi phạm thì quá khập khiễng và không mang tính răn đe. Điều này sẽ khó giảm bớt hành vi vi phạm và mức độ vi phạm, bởi cùng là vi phạm dù ở mức độ nào thì cũng bị xử phạt ở một mức là từ 800 triệu đến 01 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp chấp nhận bị phạt để thực hiện các hành vi vi phạm, vì giá trị mà các hành vi vi phạm mang lại cho doanh nghiệp là những con số lớn hơn rất nhiều so với số tiền mà doanh nghiệp bị xử lý. Vì vậy, để các quy định của pháp luật được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, bảo đảm trật tự pháp lý được duy trì trên thực tế, cần phải nâng cao chế tài xử lý vi phạm và có sự phân định từng mức độ vi phạm từ thấp lên cao và đưa ra những chế tài xử lý đi kèm. Bởi trên thực tế, các doanh nghiệp huy động vốn trái phép với mức độ lớn và hậu quả của hành vi phạm này là không nhỏ cho khách hàng, cho sự phát triển lành mạnh của thị trường bất động sản, cho nền kinh tế và đặc biệt là giảm lòng tin của nhân dân với hệ thống pháp luật. Một giải pháp khác có thể cân nhắc để nâng cao tính răn đe đó là xử phạt vi phạm về huy động vốn của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản tùy theo mức độ, quy mô dự án đầu tư của doanh nghiệp đó mà phạt, ví dụ: Quy mô dưới 1.000 tỷ thì phạt 10% giá trị dự án nếu vi phạm các quy định về huy động vốn; quy mô trên 1.000 tỷ thì phạt 15% giá trị dự án; quy mô trên 2.000 tỷ thì phạt 20% giá trị dự án...

Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về việc doanh nghiệp được phép huy động vốn bằng trái phiếu kèm theo quyền ưu tiên mua nhà, vì vậy, sức hút của hình thức huy động vốn này đã dần mất đi so với trước đây khi mà doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu và cho khách hàng được quyền ưu tiên mua nhà. Trong khi đó, việc phát hành trái phiếu kèm theo quyền ưu tiên mua nhà sẽ có nhiều ưu điểm như: (i) Đối với doanh nghiệp, thông qua hình thức này sẽ thu hút vốn đầu tư vào dự án của doanh nghiệp với lãi suất thấp, đồng thời, về đầu ra của sản phẩm là nhà ở thì doanh nghiệp sẽ phần nào không phải lo lắng. (ii) Đối với người dân, đây là cơ hội tốt để sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư, khai thác giá trị mà nguồn vốn của mình có thể mang lại đó là giá trị về mặt kinh tế và quan trọng là đáp ứng nhu cầu mua nhà của họ. (iii) Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, sẽ góp phần duy trì thúc đẩy hoạt động này phát triển, tạo ra tính thanh khoản cho thị trường, giải quyết tình trạng dự án treo, tránh lãng phí nguồn tài nguyên quan trọng này. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà thị trường bất động sản đang phải đối mặt với nhiều khó khăn về vốn, sự ảm đạm của thị trường thì cần phải có những biện pháp tích cực để khôi phục và giải quyết những khó khăn mà thị trường đang gặp phải.

Để thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho người dân có nhu cầu mua nhà thực sự được tiếp cận thông qua việc đầu tư vào trái phiếu thì pháp luật nên có hướng mở rộng thêm quyền cho doanh nghiệp được phát hành trái phiếu kèm theo quyền mua nhà hoặc ưu tiên mua nhà. Đồng thời, cần quy định chi tiết và cụ thể về điều kiện để doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được huy động vốn thông qua trái phiếu.

Thứ ba, cần ghi nhận sự bình đẳng ngang nhau về quyền tiếp cận đất đai cho các dự án đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để mở rộng quyền huy động vốn của họ. Một số quy định của pháp luật hiện hành chưa bảo đảm bình đẳng về quyền tiếp cận đất đai giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với tổ chức kinh tế trong nước. Cụ thể, theo Luật Đất đai năm 2013, đối với phương thức tiếp cận đất đai từ Nhà nước trong hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể được thực hiện trong trường hợp duy nhất đó là sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê. Trong khi đó, ngoài trường hợp này thì tổ chức kinh tế trong nước còn được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư hạ tầng nghĩa trang, nghĩa địa để chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng. Quy định này phần nào chưa thể chế hóa một cách triệt để chủ trương thực hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố đầu vào của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngoài ra, các hình thức để doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp cận đất đai từ thị trường bị cũng bị giới hạn hơn so với tổ chức kinh tế trong nước. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể nhận quyền sử dụng đất từ thị trường thông qua ba hình thức, đó là: (i) Nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất; (ii) Nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; (iii) Thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Trong khi đó, ngoài ba hình thức đã nêu, tổ chức kinh tế trong nước còn có thể nhận quyền sử dụng đất thông qua nhiều hình thức khác như: Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, nhận thừa kế quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, việc tiếp cận đất đai từ ba hình thức trên của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng bị giới hạn so với tổ chức kinh tế trong nước. Điều này dẫn đến trên thực tế, phương thức tiếp cận đất đai của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu thông qua thị trường sơ cấp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dường như chưa được tiếp cận đất đai cho mục đích đầu tư, sản xuất, kinh doanh tại thị trường sử dụng đất thứ cấp. Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài sẽ bị hạn chế trong vấn đề tham gia đầu tư cũng như huy động vốn của mình, bởi khi họ muốn thực hiện dự án đầu tư thì phải có đất, trong khi đó, quyền tiếp cận đất đai để đầu tư đã bị hạn chế, mặc dù pháp luật cho phép họ được tham gia góp vốn hợp tác đầu tư với doanh nghiệp trong nước, tuy nhiên, quyền chủ động trong vấn đề sử dụng vốn, quyết định chiến lược đầu tư kinh doanh của họ lại luôn ở thế bị động.

TS. Nguyễn Thị Dung
Trường Đại học Luật Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm