Chủ nhật 07/12/2025 12:08
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Lúng túng trong việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Trần Thị B có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành. Căn cứ nội dung bản án và đơn yêu cầu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Bản án sơ thẩm về hôn nhân gia đình số 44/HNGĐ-ST, ngày 12/11/2011 của Toà án nhân dân huyện B tuyên về quan hệ con chung như sau:

“Xử giao cháu Nguyễn Văn A, sinh ngày 20/10/2008 cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị B không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu A đang ở cùng với anh H, anh H được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản quyền này”.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Trần Thị B có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành. Căn cứ nội dung bản án và đơn yêu cầu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Sau khi được phân công, chấp hành viên đã tiến hành thủ tục thông báo quyết định thi hành án cho các bên theo quy định của pháp luật, trong thời gian tự nguyện thi hành án, chấp hành viên tiến hành làm việc với anh H về nghĩa vụ của anh theo bản án. Phía anh H đồng ý tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng và đề nghị cơ quan thi hành án sắp xếp thời gian tổ chức giao cháu A cho chị B.

Theo ý kiến của anh H, chấp hành viên đã xây dựng kế hoạch và tiến hành lập biên bản làm việc giữa anh H, chị B và đại diện chính quyền địa phương về nội dung anh H tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng. Sau khi anh H, chị B đã ký đầy đủ vào biên bản làm việc với sự chứng kiến của chấp hành viên cơ quan thi hành án và đại diện chính quyền địa phương, chị B có đưa cháu A về nhà bố mẹ anh H để cháu A chào ông, bà trước khi về sống với mẹ. Ngay sau đó, chị B trình bày với cơ quan thi hành án là bố mẹ anh H và bản thân anh H đã cản trở không cho chị đón cháu A về, chị B đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền nuôi dưỡng của chị theo đúng quyết định của bản án. Đại diện chính quyền địa phương cũng đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện giải quyết thấu đáo và triệt để. Đến đây, cơ quan thi hành án dân sự lúng túng trong cách xử lý tiếp theo. Có hai quan điểm trái ngược xin đưa ra để các đồng nghiệp cùng trao đổi, thảo luận:

Quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án đã hết trách nhiệm kể từ khi anh H, chị B cùng các thành phần đã ký vào biên bản giao, nhận cháu A. Vì vậy, việc thực tế anh H lại không cho chị B đón cháu về nuôi dưỡng, cơ quan thi hành án không có trách nhiệm giải quyết, mà thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Việc thi hành án đến đây kết thúc.

Quan điểm thứ hai, cơ quan thi hành án chưa thể kết thúc vụ việc với lý do như trên, mà phải tổ chức cưỡng chế để giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng.

Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi những căn cứ như sau:

Trong thi hành án dân sự, chỉ có 2 biện pháp để tổ chức thi hành một vụ việc là biện pháp tự nguyện và biện pháp cưỡng chế. Về cách thức thực hiện thì cũng có thể có nhiều, nhưng cũng đều thuộc một trong hai biện pháp nói trên mà thôi. Để dễ giải quyết trường hợp thực tế như trên, tôi chỉ xin phân tích quan điểm của mình về một số vấn đề liên quan trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, vì trong trường hợp này thể hiện rõ nhất về việc tự nguyện và thoả thuận thi hành án. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, trong biện pháp tự nguyện thi hành án có thể được phân ra thành hai dạng dựa vào ý chí, hành vi của các bên đương sự như sau:

Một là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của một bên có nghĩa vụ (bên phải thi hành án): Chúng ta thường bắt gặp dạng này ở những nghĩa vụ thi hành án về tiền là chủ yếu, nghĩa vụ về thực hiện công việc hoặc nghĩa vụ về tài sản thường ít gặp hơn.

Hai là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của cả bên có nghĩa vụ và bên có quyền (bên phải thi hành án và bên được thi hành án): Đối với dạng này, có thể bắt gặp ở bất kỳ nghĩa vụ thi hành án dân sự nào. Biểu hiện cụ thể và dễ hiểu nhất chính là việc thoả thuận thi hành án.

Trong tình huống thực tế như trên, chấp hành viên đã ghi nhận sự tự nguyện của anh H và tiến hành lập biên bản giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng là đã tổ chức việc thi hành án bằng biện pháp tự nguyện. Biện pháp thi hành án này rất được khuyến khích thực hiện vì giảm thiểu chi phí, thời gian, công sức, mà hơn cả là “đôi bên cùng vui vẻ” vì đều đảm bảo quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, vấn đề trong tình huống này là chị B chưa được đảm bảo thực tế quyền của mình là được nuôi dưỡng cháu A, nên chị mới tiếp tục đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền lợi về mặt thực tế cho chị. Đề nghị này là hoàn toàn hợp pháp và chính đáng, cơ quan thi hành án cần thực sự nghiêm túc để thực hiện hết trách nhiệm của mình, nếu không thì quyền lợi của chị B vẫn chỉ là trên giấy tờ và hơn nữa là chính cơ quan pháp luật đã làm giảm niềm tin của nhân dân đối với mình.

Như đã phân tích ở trên, chấp hành viên đã lập biên bản giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B dưới sự chứng kiến của chấp hành viên và đại diện chính quyền địa phương. Bản chất của việc này chính là chấp hành viên đã chứng kiến sự thoả thuận giữa anh H và chị B về việc anh H tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Về hình thức là hoàn toàn đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, ngày 13/7/2009 của Chính phủ.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.

áp dụng vào trường hợp nêu trên, việc thoả thuận giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B đã được thực hiện, nhưng ngay sau đó, anh H đã không tôn trọng thoả thuận đó, gây cản trở cho chị B trong việc thực hiện quyền của mình. Lúc này chị B hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành theo đúng nội dung bản án. Đến đây, cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 120 Luật Thi hành án dân sự thì mới hết trách nhiệm của mình.

Cũng xin được phân tích thêm về quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án cho rằng đã hết trách nhiệm kể từ khi biên bản giao, nhận cháu A được các thành phần tham gia ký tên đầy đủ. Việc giải quyết tình huống anh H ngăn cản chị B đón cháu A về nuôi dưỡng thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân xã. Quan điểm này là chưa đúng, bởi trước tiên phải khẳng định rằng đối với việc thi hành án mà đối tượng phải giao ở đây là người chưa thành niên chứ không phải là một tài sản nhất định, do đó không thể áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 để vận dụng và đẩy trách nhiệm cho ủy ban nhân dân giải quyết được.

Cần nói thêm rằng, khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 áp dụng đối với đối tượng phải giao là tài sản, mà để cơ quan thi hành án thực hiện xong hay nói cách khác là hết trách nhiệm chỉ có khi nào cơ quan thi hành án đã tổ chức cưỡng chế để giao tài sản xong, mà đương sự lại tái chiếm, thì lúc đó trách nhiệm mới thuộc về ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền như cơ quan công an hoặc Toà án nhân dân theo đúng quy định nói trên.

Vấn đề thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng theo bản án, quyết định tuy chiếm số lượng không lớn trong tổng số việc cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành, bởi đa số các đương sự đều tự thực hiện mà không phải làm đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, khi thực hiện cũng còn lúng túng ở cách hiểu, cách làm dẫn đến tình trạng chủ yếu dựa theo “kinh nghiệm cá nhân”, ảnh hưởng đến quyền lợi thực tế của đương sự và gây mất lòng tin vào cơ quan pháp luật nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng. Trên đây là ý kiến cá nhân của tôi, rất mong các đồng nghiệp cùng trao đổi để có cách làm thống nhất

Lương Thanh Tùng

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, Hải Dương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: