Thứ hai 16/06/2025 19:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Lúng túng trong việc thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Trần Thị B có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành. Căn cứ nội dung bản án và đơn yêu cầu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Bản án sơ thẩm về hôn nhân gia đình số 44/HNGĐ-ST, ngày 12/11/2011 của Toà án nhân dân huyện B tuyên về quan hệ con chung như sau:

“Xử giao cháu Nguyễn Văn A, sinh ngày 20/10/2008 cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị B không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu A đang ở cùng với anh H, anh H được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được ngăn cản quyền này”.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị Trần Thị B có đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện T tổ chức thi hành. Căn cứ nội dung bản án và đơn yêu cầu, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự huyện T đã ra quyết định thi hành án về khoản giao cháu Nguyễn Văn A cho chị Trần Thị B nuôi dưỡng và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành.

Sau khi được phân công, chấp hành viên đã tiến hành thủ tục thông báo quyết định thi hành án cho các bên theo quy định của pháp luật, trong thời gian tự nguyện thi hành án, chấp hành viên tiến hành làm việc với anh H về nghĩa vụ của anh theo bản án. Phía anh H đồng ý tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng và đề nghị cơ quan thi hành án sắp xếp thời gian tổ chức giao cháu A cho chị B.

Theo ý kiến của anh H, chấp hành viên đã xây dựng kế hoạch và tiến hành lập biên bản làm việc giữa anh H, chị B và đại diện chính quyền địa phương về nội dung anh H tự nguyện giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng. Sau khi anh H, chị B đã ký đầy đủ vào biên bản làm việc với sự chứng kiến của chấp hành viên cơ quan thi hành án và đại diện chính quyền địa phương, chị B có đưa cháu A về nhà bố mẹ anh H để cháu A chào ông, bà trước khi về sống với mẹ. Ngay sau đó, chị B trình bày với cơ quan thi hành án là bố mẹ anh H và bản thân anh H đã cản trở không cho chị đón cháu A về, chị B đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền nuôi dưỡng của chị theo đúng quyết định của bản án. Đại diện chính quyền địa phương cũng đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện giải quyết thấu đáo và triệt để. Đến đây, cơ quan thi hành án dân sự lúng túng trong cách xử lý tiếp theo. Có hai quan điểm trái ngược xin đưa ra để các đồng nghiệp cùng trao đổi, thảo luận:

Quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án đã hết trách nhiệm kể từ khi anh H, chị B cùng các thành phần đã ký vào biên bản giao, nhận cháu A. Vì vậy, việc thực tế anh H lại không cho chị B đón cháu về nuôi dưỡng, cơ quan thi hành án không có trách nhiệm giải quyết, mà thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương. Việc thi hành án đến đây kết thúc.

Quan điểm thứ hai, cơ quan thi hành án chưa thể kết thúc vụ việc với lý do như trên, mà phải tổ chức cưỡng chế để giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng.

Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, bởi những căn cứ như sau:

Trong thi hành án dân sự, chỉ có 2 biện pháp để tổ chức thi hành một vụ việc là biện pháp tự nguyện và biện pháp cưỡng chế. Về cách thức thực hiện thì cũng có thể có nhiều, nhưng cũng đều thuộc một trong hai biện pháp nói trên mà thôi. Để dễ giải quyết trường hợp thực tế như trên, tôi chỉ xin phân tích quan điểm của mình về một số vấn đề liên quan trong trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, vì trong trường hợp này thể hiện rõ nhất về việc tự nguyện và thoả thuận thi hành án. Theo kinh nghiệm của cá nhân tôi, trong biện pháp tự nguyện thi hành án có thể được phân ra thành hai dạng dựa vào ý chí, hành vi của các bên đương sự như sau:

Một là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của một bên có nghĩa vụ (bên phải thi hành án): Chúng ta thường bắt gặp dạng này ở những nghĩa vụ thi hành án về tiền là chủ yếu, nghĩa vụ về thực hiện công việc hoặc nghĩa vụ về tài sản thường ít gặp hơn.

Hai là, tự nguyện thi hành án theo ý chí của cả bên có nghĩa vụ và bên có quyền (bên phải thi hành án và bên được thi hành án): Đối với dạng này, có thể bắt gặp ở bất kỳ nghĩa vụ thi hành án dân sự nào. Biểu hiện cụ thể và dễ hiểu nhất chính là việc thoả thuận thi hành án.

Trong tình huống thực tế như trên, chấp hành viên đã ghi nhận sự tự nguyện của anh H và tiến hành lập biên bản giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng là đã tổ chức việc thi hành án bằng biện pháp tự nguyện. Biện pháp thi hành án này rất được khuyến khích thực hiện vì giảm thiểu chi phí, thời gian, công sức, mà hơn cả là “đôi bên cùng vui vẻ” vì đều đảm bảo quyền, nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, vấn đề trong tình huống này là chị B chưa được đảm bảo thực tế quyền của mình là được nuôi dưỡng cháu A, nên chị mới tiếp tục đề nghị cơ quan thi hành án đảm bảo quyền lợi về mặt thực tế cho chị. Đề nghị này là hoàn toàn hợp pháp và chính đáng, cơ quan thi hành án cần thực sự nghiêm túc để thực hiện hết trách nhiệm của mình, nếu không thì quyền lợi của chị B vẫn chỉ là trên giấy tờ và hơn nữa là chính cơ quan pháp luật đã làm giảm niềm tin của nhân dân đối với mình.

Như đã phân tích ở trên, chấp hành viên đã lập biên bản giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B dưới sự chứng kiến của chấp hành viên và đại diện chính quyền địa phương. Bản chất của việc này chính là chấp hành viên đã chứng kiến sự thoả thuận giữa anh H và chị B về việc anh H tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Về hình thức là hoàn toàn đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự và hướng dẫn tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP, ngày 13/7/2009 của Chính phủ.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định”.

áp dụng vào trường hợp nêu trên, việc thoả thuận giao, nhận cháu A giữa anh H và chị B đã được thực hiện, nhưng ngay sau đó, anh H đã không tôn trọng thoả thuận đó, gây cản trở cho chị B trong việc thực hiện quyền của mình. Lúc này chị B hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành theo đúng nội dung bản án. Đến đây, cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế giao cháu A cho chị B nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 120 Luật Thi hành án dân sự thì mới hết trách nhiệm của mình.

Cũng xin được phân tích thêm về quan điểm thứ nhất, cơ quan thi hành án cho rằng đã hết trách nhiệm kể từ khi biên bản giao, nhận cháu A được các thành phần tham gia ký tên đầy đủ. Việc giải quyết tình huống anh H ngăn cản chị B đón cháu A về nuôi dưỡng thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân xã. Quan điểm này là chưa đúng, bởi trước tiên phải khẳng định rằng đối với việc thi hành án mà đối tượng phải giao ở đây là người chưa thành niên chứ không phải là một tài sản nhất định, do đó không thể áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 để vận dụng và đẩy trách nhiệm cho ủy ban nhân dân giải quyết được.

Cần nói thêm rằng, khoản 4 Điều 8 Nghị định số 58 áp dụng đối với đối tượng phải giao là tài sản, mà để cơ quan thi hành án thực hiện xong hay nói cách khác là hết trách nhiệm chỉ có khi nào cơ quan thi hành án đã tổ chức cưỡng chế để giao tài sản xong, mà đương sự lại tái chiếm, thì lúc đó trách nhiệm mới thuộc về ủy ban nhân dân hoặc cơ quan có thẩm quyền như cơ quan công an hoặc Toà án nhân dân theo đúng quy định nói trên.

Vấn đề thi hành nghĩa vụ giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng theo bản án, quyết định tuy chiếm số lượng không lớn trong tổng số việc cơ quan thi hành án đang tổ chức thi hành, bởi đa số các đương sự đều tự thực hiện mà không phải làm đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, khi thực hiện cũng còn lúng túng ở cách hiểu, cách làm dẫn đến tình trạng chủ yếu dựa theo “kinh nghiệm cá nhân”, ảnh hưởng đến quyền lợi thực tế của đương sự và gây mất lòng tin vào cơ quan pháp luật nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng. Trên đây là ý kiến cá nhân của tôi, rất mong các đồng nghiệp cùng trao đổi để có cách làm thống nhất

Lương Thanh Tùng

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang, Hải Dương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm