Thứ hai 08/12/2025 08:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số kiến nghị sửa đổi các quy định pháp luật liên quan đến đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Trong bài viết này, tác giả phân tích một số hạn chế của các quy định pháp luật liên quan đến đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện.


1. Một số hạn chế của các quy định pháp luật liên quan đến đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài, pháp luật hộ tịch đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể:

1.1. Chưa rõ ràng trong việc quy định hình thức cư trú của người chết khi thực hiện đăng ký khai tử cho người nước ngoài tại khu vực biên giới

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch, Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới có thẩm quyền đăng ký “khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam”.

Quy định nêu trên chưa rõ ràng, không thể xác định sự khác biệt giữa “cư trú ổn định lâu dài” và “cư trú không ổn định lâu dài”. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hộ tịch và pháp luật cư trú không quy định khái niệm “cư trú ổn định lâu dài”. Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 cũng chỉ nêu khái niệm “cư trú”, chứ không nêu khái niệm “cư trú ổn định lâu dài”[1].

Để khắc phục hạn chế nêu trên, khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch (Nghị định số 123/2015/NĐ-CP) quy định như sau: “Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký khai tử cho người chết là người nước ngoài cư trú tại xã đó”. Quy định này rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới trong đăng ký khai tử cho người nước ngoài tại khu vực biên giới.

Tuy nhiên, khi so sánh hai quy định nêu trên, chúng ta nhận thấy quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP không thống nhất với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch, người chết được đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã nơi họ cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam. Còn theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, người chết được đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã nơi họ cư trú (không cần phải ổn định lâu dài).

1.2. Có sự khác biệt khá lớn trong hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới

Theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và khoản 1 Điều 38 Luật Hộ tịch, hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp huyện bao gồm:

- Tờ khai đăng ký kết hôn;

- Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài;

- Bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay hộ chiếu;

- Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đăng ký kết hôn không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch;

- Nếu bên kết hôn là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì còn phải nộp bản sao trích lục hộ tịch về việc đã ghi vào sổ việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn; nếu là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ trong lực lượng vũ trang thì phải nộp văn bản của cơ quan, đơn vị quản lý xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không trái với quy định của ngành đó.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, hồ sơ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới chỉ bao gồm:

- Tờ khai đăng ký kết hôn;

- Giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của người nước ngoài;

- Bản sao giấy tờ chứng minh nhân thân, chứng minh nơi thường trú ở khu vực biên giới của công dân nước láng giềng.

So sánh hai loại hồ sơ nêu trên, thì hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp huyện đầy đủ hơn, dự tính trước nhiều tình huống có thể xảy ra liên quan đến người đăng ký kết hôn như: Năng lực hành vi dân sự của người đăng ký kết hôn; bên kết hôn là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài; bên kết hôn là công dân Việt Nam là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ trong lực lượng vũ trang của Việt Nam. Hồ sơ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới còn khá sơ sài, không dự tính trước các tình huống có thể xảy ra liên quan đến người đăng ký kết hôn như đã nêu ở trên.

1.3. Không quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp

Điều 76 Luật Hộ tịch quy định Chính phủ có thẩm quyền quy định việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam. Để cụ thể hóa Điều 76 Luật Hộ tịch, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam tại các điều 10, 21, 22 và 23.

Điều 10 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định người yêu cầu đăng ký kết hôn nộp bản chính giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định sau:

“1. Trường hợp đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà người yêu cầu đăng ký kết hôn không thường trú tại xã, phường, thị trấn nơi đăng ký kết hôn thì phải nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cấp theo quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Nghị định này.

Trường hợp đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp huyện thì người yêu cầu đăng ký kết hôn đang cư trú ở trong nước phải nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền cấp theo quy định tại các điều 21, 22 và 23 của Nghị định này.

2. Trường hợp người yêu cầu đăng ký kết hôn đang công tác, học tập, lao động có thời hạn ở nước ngoài thì phải nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ quan đại diện) cấp”.

Từ những quy định trên cho thấy, các Điều 21, 22 và 23 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP chỉ quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp như: Thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; giá trị pháp lý của giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hộ tịch đã không quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp. Chính vì vậy, việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho những người yêu cầu đăng ký kết hôn đang công tác, học tập, lao động có thời hạn ở nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn và vướng mắc.

1.4. Không hợp lý trong việc phân định thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài

Theo các quy định tại Chương 3 và Chương 4 Luật Hộ tịch, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch cho “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài”, còn Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chỉ có thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch cho “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài”.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Thông tư số 02/2016/TTLT-BNG-BTP ngày 30/6/2016 của Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài thì “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài là người đang có quốc tịch Việt Nam thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài”; còn theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008 thì “người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.

Như vậy, mặc dù có khác nhau về thời hạn cư trú, nhưng cả hai đối tượng này đều là những công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài và nhiều người trong số họ thường xuyên đi về Việt Nam và ra nước ngoài. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Hộ tịch thì “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài” chỉ được đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài” chỉ được đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện Việt Nam là không hợp lý. Sự không hợp lý đó được thể hiện như sau:

- Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài có thời gian cư trú lâu dài ở nước ngoài (phần lớn những người này ở nước ngoài nhiều hơn ở Việt Nam), nhưng chỉ được đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện mà không được đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

- Có nhiều công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài là người tạm trú ở nước ngoài (phần lớn những người này có thời gian ở nước ngoài không nhiều), nhưng chỉ được đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài mà không được đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.

2. Một số kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật liên quan đến đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài

2.1. Cần quy định rõ ràng hình thức cư trú của người chết khi thực hiện đăng ký khai tử cho người nước ngoài tại khu vực biên giới

Các quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP rõ ràng, cụ thể hơn, tuy nhiên lại chưa thực sự phù hợp với quy định tại đoạn thứ ba của điểm d khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch trong việc quy định việc đăng ký khai tử cho người nước ngoài chết tại khu vực biên giới. Về nguyên tắc, khi có sự mâu thuẫn giữa nghị định và luật thì cần áp dụng luật, tuy nhiên trên thực tế, các cơ quan nhà nước thường áp dụng nghị định, điều này đã làm ảnh hưởng đến tính tối cao của Hiến pháp và luật - một đặc điểm quan trọng của Nhà nước pháp quyền.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện trên thực tế, trong trường hợp này, trước tiên, Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới tạm thời áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 20 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP để thực hiện đăng ký khai tử cho người nước ngoài chết tại khu vực biên giới. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần sửa đổi đoạn thứ ba của điểm d khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch, theo đó “Ủy ban nhân dân xã ở khu vực biên giới thực hiện đăng ký khai tử cho người chết là người nước ngoài cư trú tại xã đó”.

2.2. Cần bổ sung một số giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới

So với hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp huyện thì hồ sơ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới còn quá sơ sài, không dự tính trước các tình huống có thể xảy ra liên quan đến người đăng ký kết hôn. Do đó, cần quy định bổ sung hồ sơ đăng ký kết hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Ủy ban nhân dân cấp xã ở khu vực biên giới. Theo đó, ngoài những giấy tờ đã được quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, người đăng ký kết hôn phải nộp thêm các giấy tờ sau:

- Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài xác nhận người đăng ký kết hôn không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

- Nếu bên kết hôn là công dân Việt Nam đã ly hôn hoặc hủy việc kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thì còn phải nộp bản sao trích lục hộ tịch về việc đã ghi vào sổ việc ly hôn hoặc hủy việc kết hôn; nếu là công chức, viên chức hoặc đang phục vụ trong lực lượng vũ trang thì phải nộp văn bản của cơ quan, đơn vị quản lý xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không trái với quy định của ngành đó.

2.3. Cần quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hộ tịch đã không quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp. Để tạo điều kiện dễ dàng cho Cơ quan đại diện trong việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, cần sửa đổi Nghị định số 123/2015/NĐ-CP theo hướng quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp như: Thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; giá trị pháp lý của giấy xác nhận tình trạng hôn nhân do Cơ quan đại diện cấp.

2.4. Cần bổ sung thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc đăng ký hộ tịch cho “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài” và “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài”

Để giải quyết sự bất hợp lý trong việc phân định thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch giữa Ủy ban nhân dân cấp huyện và Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cần bổ sung thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Cơ quan đại diện, theo đó, cả hai cơ quan này đều có thẩm quyền đăng ký các việc hộ tịch cho “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài” và “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài”. Làm được như vậy sẽ thực sự tạo điều kiện cho cả hai đối tượng nêu trên trong việc đăng ký hộ tịch, khi ở nước ngoài “công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài” và “công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài” đều được đăng ký hộ tịch tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, khi ở Việt Nam họ đều được đăng ký hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.

ThS. Trần Việt Dũng

Đại học Luật thuộc Đại học Huế





[1]. Theo các quy định tại Điều 3 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, thì “cư trú là việc người nước ngoài thường trú hoặc tạm trú tại Việt Nam”.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: