Chủ nhật 07/12/2025 19:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số quy định của pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

Kể từ khi Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (gọi tắt tiếng Anh là IAEA) được thành lập năm 1957 đến nay, trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc, nhiều Hội nghị quốc tế có tính chất toàn cầu về chủ đề bảo vệ môi trường đã được tổ chức, trong đó có bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Cùng với sự gia tăng của hàng loạt các công ước quốc tế về môi trường, các chương trình và cơ chế quốc tế về hợp tác, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường quốc tế cũng hình thành nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng. Đặc biệt, từ sau năm 1992 (tức sau Hội nghị Rio de Janeiro, Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển), pháp luật môi trường quốc tế đã có sự phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức, với sự hỗ trợ của Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ khác về môi trường.

Cơ sở pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử

Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay, có một số điều ước quốc tế toàn cầu, khu vực và song phương liên quan đến bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được ký kết. Điển hình là các điều ước quốc tế sau đây: Sổ tay Luật hạt nhân của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) năm 2003; Công ước Viên về an toàn hạt nhân năm 1994; Công ước chung về An toàn trong quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn trong quản lý chất thải phóng xạ năm 1997; Công ước Paris năm 1960 được sửa đổi, bổ sung bởi các nghị định thư ngày 28/01/1964 và ngày 16/11/1982 về trách nhiệm bồi thường thiệt hạt trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân; Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân năm 1963; Công ước bổ sung về bồi thường đối với những tổn hại hạt nhân năm 1997; Công ước ngăn chặn ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác năm 1972 và Bản Phụ lục năm 1978; Hiệp ước Nam cực năm 1959 quy định cấm mọi vụ nổ hạt nhân hoặc thải chất thải hạt nhân tại Nam cực; Công ước Bruxelles ngày 25/5/1962 về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực vận chuyển đường biển các chất phóng xạ, hạt nhân; Hiệp ước Moscow ngày 5/8/1963 về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, vũ trụ và dưới nước; Hiệp ước London – Moscow – Washington ngày 22/4/1968 về không phổ biến vũ khí hạt nhân; Hiệp ước về khu vực phi hạt nhân vùng Đông Nam Á năm 1995...

Với hệ thống các điều ước quốc tế quan trọng nêu trên, có thể nói pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và đặc biệt là môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đã được hình thành và phát triển rất nhanh chóng. Dưới đây, tác giả giới thiệu nội dung cơ bản của một số văn bản pháp lý quan trọng:

1. Sổ tay Hướng dẫn luật hạt nhân năm 2003

Sổ tay ra đời năm 2003 với mục tiêu chính là tài liệu tham khảo về các tiêu chuẩn và hướng dẫn do IAEA xây dựng bao gồm những yếu tố cơ bản trong việc xây dựng và thực thi luật hạt nhân. Cuốn Sổ tay giúp những người tham gia vào việc soạn thảo luật hạt nhân trong những nước mà phát luật hạt nhân kém phát triển; những người tham gia vào việc chỉnh sửa, củng cố, làm cho chặt chẽ hơn luật pháp hiện hành trong những nước mà phát luật hạt nhân đã tương đối hoàn chỉnh. Cuốn Sổ tay còn có thể giúp Chính phủ các nước hoàn thiện pháp luật quốc gia phù hợp với văn kiện quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân. Thực tế Việt Nam hiện nay là nước pháp luật hạt nhân kém phát triển, việc sử dụng cuốn Sổ tay hướng dẫn của IAEA làm cơ sở định hướng cho công tác soạn thảo luật năng lượng hạt nhân là hết sức cần thiết.

2. Công ước về An toàn hạt nhân ngày năm 1994

Công ước bắt đầu có hiệu lực vào ngày 24/10/1996 và đến ngày 11/4/2005, 56 quốc gia và một tổ chức khu vực (Euratom) đã gửi văn kiện phê chuẩn. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia Công ước này. Công ước gồm lời nói đầu, 4 chương và 35 điều. Các quốc gia là thành viên của Công ước có các nghĩa vụ chủ yếu sau đây:

- Mỗi bên thành viên sẽ nội luật hóa trong hệ thống pháp luật nước mình các quy định mang tính chất hành chính và các biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại Công ước.

- Mỗi bên thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để cho phép tiến hành kiểm tra sớm nhất có thể sự an toàn của các công trình hạt nhân hiện có vào thời điểm Công ước có hiệu lực đối với bên đó.

- Mỗi bên thành viên thiết lập và duy trì một khuôn khổ pháp lý để quản lý vấn đề an toàn của các công trình hạt nhân, các biện pháp đảm bảo pháp luật và các điều kiện quy định trong giấy phép được tuân thủ, kể cả biện pháp tạm đình chỉ hoạt động, thay đổi hay rút giấy phép.

- Trong việc lựa chọn địa điểm xây dựng, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp cần thiết để quy định và thực hiện một thủ tục thích hợp cho phép: Đánh giá mọi yếu tố liên quan đến địa điểm xây dựng, có khả năng ảnh hưởng đến sự an toàn của công trình hạt nhân trong suốt quá trình vận hành của công trình đó; đánh giá tác động mà một công trình hạt nhân đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng có thể gây ra đối với sự an toàn của con người, xã hội và môi trường; tham khảo ý kiến các bên thành viên gần khu vực dự án xây dựng công trình hạt nhân nếu công trình đó có khả năng ảnh hưởng đến họ và nếu được yêu cầu phải cung cấp cho các quốc gia này những thông tin cần thiết cho phép họ tự xem xét, đánh giá về tác động mà công trình hạt nhân có thể gây ra đối với sự an toàn trên lãnh thổ nước mình.

- Trong thiết kế và xây dựng, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo trong quá trình thiết kế và xây dựng một công trình hạt nhân phải dự trù nhiều cấp độ và phương thức bảo vệ hiệu quả (bảo vệ có chiều sâu) chống lại sự đào thải các chất phóng xạ nhằm ngăn ngừa tai nạn và hạn chế hậu quả phóng xạ nếu xảy ra tai nạn;

- Trong khai thác, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo giấy phép khai thác lần đầu cho một công trình hạt nhân phải căn cứ vào kết quả phân tích vấn đề an toàn được tiến hành một cách hợp lý và vào một chương trình vận hành mà kết quả cho thấy công trình hạt nhân trong tình trạng như đã được xây dựng đáp ứng được các yêu cầu về thiết kế và an toàn;

- Số lượng rác thải phóng xạ sinh ra từ hoạt động của một công trình hạt nhân phải được giảm đến mức thấp nhất có thể.

3. Công ước chung về an toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ năm 1997

Công ước này nhằm mục đích: đạt được và duy trì một mức an toàn cao trên khắp thế giới trong việc quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng, thông qua việc tăng cường các biện pháp trong phạm vi quốc gia và sự phối hợp quốc tế, bao gồm cả việc phối hợp về mặt kỹ thuật; đảm bảo rằng trong suốt quá trình quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng, phải có sự phòng chống hiệu quả các thảm họa có thể xảy ra để con người, xã hội và môi trường được bảo vệ khỏi tác hại của bức xạ ion hóa trong hiện tại và trong tương lai, theo hướng mà các nhu cầu và nguyện vọng của thế hệ hiện tại được đáp ứng nhưng điều đó không làm suy giảm khả năng đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của thế hệ tương lai; ngăn chặn các tai nạn gây ra những hậu quả bức xạ và giảm nhẹ các hậu quả này nếu xảy ra trong quá trình quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân.

Ngày nay, các hoạt động liên quan đến phóng xạ, hạt nhân đang trở thành mối đe dọa tiềm ẩn gây ra những tác động cực kỳ nguy hiểm cho môi trường. Liên hợp quốc và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế đã đánh giá vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ngày 26/4/1986 làm 7,1 triệu người bị nhiễm xạ với lượng nhiều gấp 100 lần so với hai quả bom nguyên từ thả xuống Hiroshima và Nagasaki hồi chiến tranh thế giới lần thứ hai cộng lại. Gần đây, trận động đất và sóng thần làm rò rỉ chất phóng xạ tại nhà máy điện nguyên tử FUKUSHIMA Đông bắc Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã khiến hơn 18.000 người chết và mất tích, gây ra sự cố hạt nhân tồi tệ nhất thế giới kể từ sau thảm họa hạt nhân Chernobyl. Ba năm là một khoảng thời gian không hề ngắn cho một nỗ lực thần kỳ của đất nước Nhật Bản nhưng chưa đủ dài để xóa sạch những vết thương về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Những thực tiễn trên đã cho thấy, việc xây dựng các quy định pháp lý để kiểm soát các hoạt động sử dụng phóng xạ, hạt nhân là hết sức cấp bách nhằm bảo vệ môi trường phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Để có thể sử dụng rộng rãi, hiệu quả các nguồn phóng xạ trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời giảm thiểu đến mức thấp nhất nguy hiểm có thể có đối với sức khoẻ con người và tác hại đối với môi trường, cần phải có sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ không chỉ của hệ thống quản lý nhà nước của từng quốc gia mà cần phải có sự hợp tác và kiểm soát chặt chẽ của các quốc gia trên toàn thế giới.

Tài liệu tham khảo:

1. Sổ tay Luật hạt nhân;

2. Công ước về an toàn hạt nhân, INFCIRC/449, IAEA, Viên (1994);

3. Công ước chung về an toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ, INFCIRC/546, IAEA, Viên (1997);

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: