
Cùng với sự gia tăng của hàng loạt các công ước quốc tế về môi trường, các chương trình và cơ chế quốc tế về hợp tác, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường quốc tế cũng hình thành nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng. Đặc biệt, từ sau năm 1992 (tức sau Hội nghị Rio de Janeiro, Hội nghị của Liên hợp quốc về môi trường và phát triển), pháp luật môi trường quốc tế đã có sự phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức, với sự hỗ trợ của Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ khác về môi trường.
Cơ sở pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay, có một số điều ước quốc tế toàn cầu, khu vực và song phương liên quan đến bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được ký kết. Điển hình là các điều ước quốc tế sau đây: Sổ tay Luật hạt nhân của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) năm 2003; Công ước Viên về an toàn hạt nhân năm 1994; Công ước chung về An toàn trong quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn trong quản lý chất thải phóng xạ năm 1997; Công ước Paris năm 1960 được sửa đổi, bổ sung bởi các nghị định thư ngày 28/01/1964 và ngày 16/11/1982 về trách nhiệm bồi thường thiệt hạt trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân; Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân năm 1963; Công ước bổ sung về bồi thường đối với những tổn hại hạt nhân năm 1997; Công ước ngăn chặn ô nhiễm biển do đổ chất thải và các chất khác năm 1972 và Bản Phụ lục năm 1978; Hiệp ước Nam cực năm 1959 quy định cấm mọi vụ nổ hạt nhân hoặc thải chất thải hạt nhân tại Nam cực; Công ước Bruxelles ngày 25/5/1962 về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực vận chuyển đường biển các chất phóng xạ, hạt nhân; Hiệp ước Moscow ngày 5/8/1963 về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, vũ trụ và dưới nước; Hiệp ước London – Moscow – Washington ngày 22/4/1968 về không phổ biến vũ khí hạt nhân; Hiệp ước về khu vực phi hạt nhân vùng Đông Nam Á năm 1995...
Với hệ thống các điều ước quốc tế quan trọng nêu trên, có thể nói pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và đặc biệt là môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử đã được hình thành và phát triển rất nhanh chóng. Dưới đây, tác giả giới thiệu nội dung cơ bản của một số văn bản pháp lý quan trọng:
1. Sổ tay Hướng dẫn luật hạt nhân năm 2003
Sổ tay ra đời năm 2003 với mục tiêu chính là tài liệu tham khảo về các tiêu chuẩn và hướng dẫn do IAEA xây dựng bao gồm những yếu tố cơ bản trong việc xây dựng và thực thi luật hạt nhân. Cuốn Sổ tay giúp những người tham gia vào việc soạn thảo luật hạt nhân trong những nước mà phát luật hạt nhân kém phát triển; những người tham gia vào việc chỉnh sửa, củng cố, làm cho chặt chẽ hơn luật pháp hiện hành trong những nước mà phát luật hạt nhân đã tương đối hoàn chỉnh. Cuốn Sổ tay còn có thể giúp Chính phủ các nước hoàn thiện pháp luật quốc gia phù hợp với văn kiện quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân. Thực tế Việt Nam hiện nay là nước pháp luật hạt nhân kém phát triển, việc sử dụng cuốn Sổ tay hướng dẫn của IAEA làm cơ sở định hướng cho công tác soạn thảo luật năng lượng hạt nhân là hết sức cần thiết.
2. Công ước về An toàn hạt nhân ngày năm 1994
Công ước bắt đầu có hiệu lực vào ngày 24/10/1996 và đến ngày 11/4/2005, 56 quốc gia và một tổ chức khu vực (Euratom) đã gửi văn kiện phê chuẩn. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia Công ước này. Công ước gồm lời nói đầu, 4 chương và 35 điều. Các quốc gia là thành viên của Công ước có các nghĩa vụ chủ yếu sau đây:
- Mỗi bên thành viên sẽ nội luật hóa trong hệ thống pháp luật nước mình các quy định mang tính chất hành chính và các biện pháp cần thiết khác nhằm thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại Công ước.
- Mỗi bên thành viên sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để cho phép tiến hành kiểm tra sớm nhất có thể sự an toàn của các công trình hạt nhân hiện có vào thời điểm Công ước có hiệu lực đối với bên đó.
- Mỗi bên thành viên thiết lập và duy trì một khuôn khổ pháp lý để quản lý vấn đề an toàn của các công trình hạt nhân, các biện pháp đảm bảo pháp luật và các điều kiện quy định trong giấy phép được tuân thủ, kể cả biện pháp tạm đình chỉ hoạt động, thay đổi hay rút giấy phép.
- Trong việc lựa chọn địa điểm xây dựng, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp cần thiết để quy định và thực hiện một thủ tục thích hợp cho phép: Đánh giá mọi yếu tố liên quan đến địa điểm xây dựng, có khả năng ảnh hưởng đến sự an toàn của công trình hạt nhân trong suốt quá trình vận hành của công trình đó; đánh giá tác động mà một công trình hạt nhân đang trong quá trình nghiên cứu xây dựng có thể gây ra đối với sự an toàn của con người, xã hội và môi trường; tham khảo ý kiến các bên thành viên gần khu vực dự án xây dựng công trình hạt nhân nếu công trình đó có khả năng ảnh hưởng đến họ và nếu được yêu cầu phải cung cấp cho các quốc gia này những thông tin cần thiết cho phép họ tự xem xét, đánh giá về tác động mà công trình hạt nhân có thể gây ra đối với sự an toàn trên lãnh thổ nước mình.
- Trong thiết kế và xây dựng, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo trong quá trình thiết kế và xây dựng một công trình hạt nhân phải dự trù nhiều cấp độ và phương thức bảo vệ hiệu quả (bảo vệ có chiều sâu) chống lại sự đào thải các chất phóng xạ nhằm ngăn ngừa tai nạn và hạn chế hậu quả phóng xạ nếu xảy ra tai nạn;
- Trong khai thác, mỗi bên thành viên thực hiện các biện pháp thích hợp để đảm bảo giấy phép khai thác lần đầu cho một công trình hạt nhân phải căn cứ vào kết quả phân tích vấn đề an toàn được tiến hành một cách hợp lý và vào một chương trình vận hành mà kết quả cho thấy công trình hạt nhân trong tình trạng như đã được xây dựng đáp ứng được các yêu cầu về thiết kế và an toàn;
- Số lượng rác thải phóng xạ sinh ra từ hoạt động của một công trình hạt nhân phải được giảm đến mức thấp nhất có thể.
3. Công ước chung về an toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ năm 1997
Công ước này nhằm mục đích: đạt được và duy trì một mức an toàn cao trên khắp thế giới trong việc quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng, thông qua việc tăng cường các biện pháp trong phạm vi quốc gia và sự phối hợp quốc tế, bao gồm cả việc phối hợp về mặt kỹ thuật; đảm bảo rằng trong suốt quá trình quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng, phải có sự phòng chống hiệu quả các thảm họa có thể xảy ra để con người, xã hội và môi trường được bảo vệ khỏi tác hại của bức xạ ion hóa trong hiện tại và trong tương lai, theo hướng mà các nhu cầu và nguyện vọng của thế hệ hiện tại được đáp ứng nhưng điều đó không làm suy giảm khả năng đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của thế hệ tương lai; ngăn chặn các tai nạn gây ra những hậu quả bức xạ và giảm nhẹ các hậu quả này nếu xảy ra trong quá trình quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân.
Ngày nay, các hoạt động liên quan đến phóng xạ, hạt nhân đang trở thành mối đe dọa tiềm ẩn gây ra những tác động cực kỳ nguy hiểm cho môi trường. Liên hợp quốc và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế đã đánh giá vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ngày 26/4/1986 làm 7,1 triệu người bị nhiễm xạ với lượng nhiều gấp 100 lần so với hai quả bom nguyên từ thả xuống Hiroshima và Nagasaki hồi chiến tranh thế giới lần thứ hai cộng lại. Gần đây, trận động đất và sóng thần làm rò rỉ chất phóng xạ tại nhà máy điện nguyên tử FUKUSHIMA Đông bắc Nhật Bản ngày 11/3/2011 đã khiến hơn 18.000 người chết và mất tích, gây ra sự cố hạt nhân tồi tệ nhất thế giới kể từ sau thảm họa hạt nhân Chernobyl. Ba năm là một khoảng thời gian không hề ngắn cho một nỗ lực thần kỳ của đất nước Nhật Bản nhưng chưa đủ dài để xóa sạch những vết thương về bảo vệ môi trường trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Những thực tiễn trên đã cho thấy, việc xây dựng các quy định pháp lý để kiểm soát các hoạt động sử dụng phóng xạ, hạt nhân là hết sức cấp bách nhằm bảo vệ môi trường phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Để có thể sử dụng rộng rãi, hiệu quả các nguồn phóng xạ trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đồng thời giảm thiểu đến mức thấp nhất nguy hiểm có thể có đối với sức khoẻ con người và tác hại đối với môi trường, cần phải có sự quản lý và kiểm soát chặt chẽ không chỉ của hệ thống quản lý nhà nước của từng quốc gia mà cần phải có sự hợp tác và kiểm soát chặt chẽ của các quốc gia trên toàn thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1. Sổ tay Luật hạt nhân;
2. Công ước về an toàn hạt nhân, INFCIRC/449, IAEA, Viên (1994);
3. Công ước chung về an toàn quản lý nhiên liệu thải và chất thải phóng xạ, INFCIRC/546, IAEA, Viên (1997);