Chủ nhật 14/12/2025 04:40
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề pháp lý phát sinh trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là vấn đề không mới trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, xã hội ngày nay đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề phức tạp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng vô sinh hiếm muộn có xu hướng ngày càng tăng cao. Bài viết phân tích những khía cạnh về bản chất pháp lý của sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Đồng thời, bài viết cũng tập trung phân tích các vấn đề pháp lý phát sinh có tính dự liệu trước thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về vấn đề này. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp luật, tác giả chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản - một trong những vấn đề bộc lộ nhiều khó khăn và mang tính nhạy cảm cao trong giai đoạn hiện nay.


1. Nhận diện bản chất pháp lý của sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một trong những quan hệ xã hội khá phức tạp, có mối liên hệ chặt chẽ cả về các yếu tố về y học và các yếu tố pháp lý. Xét dưới phương diện y học, kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khá đa dạng, bao gồm nhiều phương pháp khác nhau nhằm mục đích điều trị tình trạng vô sinh, hiếm muộn, giúp các cặp vợ chồng được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ. Về bản chất, đặc trưng cơ bản nhất của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là hình thức sinh con phải có sự can thiệp của các kỹ thuật y sinh học; áp dụng các tri thức về khoa học để hỗ trợ cho việc sinh con mà vì lý do nào đó không thể thụ thai tự nhiên. Tùy thuộc vào thể trạng và các yếu tố sinh học của mỗi cá nhân khác nhau, các bác sĩ, chuyên gia có thể lựa chọn các phương pháp hỗ trợ sinh sản cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất.

Dưới phương diện pháp lý, trước đây, để xác định các trường hợp sinh con cần có sự tác động, can thiệp của y học, pháp luật Việt Nam sử dụng thuật ngữ “sinh con theo phương pháp khoa học” tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học (Nghị định số 12/2003/NĐ-CP). Theo đó, “sinh con theo phương pháp khoa học là việc sinh con được thực hiện bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm”. Tuy nhiên, về mặt logic, khái niệm về sinh con bằng phương pháp khoa học được quy định trên không thật sự hợp lý. Bởi lẽ, cách định nghĩa như trên là sử dụng một khái niệm khác để giải thích cho khái niệm cần làm rõ. Với cách định nghĩa này, một lần nữa lại cần làm rõ khái niệm “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” là gì. Điều này tạo ra sự rườm rà và khó hiểu trong việc vận dụng thuật ngữ. Do đó, để khắc phục hạn chế này, khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã pháp điển hóa bằng cách sử dụng khái niệm thống nhất là “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản”. Theo đó, “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Như vậy, pháp luật hiện hành đã có sự thay đổi trong việc điều chỉnh thuật ngữ pháp lý nói trên. Điều này là phù hợp, dễ hiểu và súc tích. Định nghĩa này đã chỉ ra rằng, hai phương thức quan trọng để thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm.

Đối với kỹ thuật thụ tinh nhân tạo: Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ông nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) không đưa ra cách giải thích từ ngữ cụ thể. Đồng thời, khoản 2 Điều 1 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về phạm vi điều chỉnh cũng đã giới hạn rằng: “Việc thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo được thực hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này”[1]. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy rằng, việc làm rõ khái niệm này là rất cần thiết bởi lẽ thực tế vẫn có sự nhầm lẫn trong cách thức vận dụng hai trường hợp này khi tiến hành thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trước đây, định nghĩa về thụ tinh nhân tạo đã được quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP. Về mặt kỹ thuật thì phương pháp này được quy định cụ thể tại Mục III Thông tư 12/2012/TT-BYT ngày 05/7/2012 của Bộ Y tế ban hành quy trình kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm. Theo đó, thụ tinh nhân tạo là kỹ thuật không quá phức tạp, kỹ thuật này được thực hiện nhằm mục đích giúp các chủ thể có nhu cầu gia tăng khả năng thụ thai, với cách thực hiện tự thụ tinh và phát triển ngay trong cơ thể của người phụ nữ mà không cần phải tạo phôi ở môi trường bên ngoài và chuyển phôi để người phụ nữ này mang thai.

Đối với kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm: Xét dưới khía cạnh y học, thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp tạo phôi bên ngoài cơ thể, sau một thời gian nuôi cấy bên ngoài, phôi sẽ được đưa trở lại buồng tử cung của người phụ nữ để làm tổ và bắt đầu quá trình mang thai. Đây là một kỹ thuật y khoa phức tạp được sử dụng điều trị các trường hợp vô sinh, hiếm muộn và là phương pháp đem lại hiệu quả điều trị khá cao trong giai đoạn hiện nay. Xét dưới khía cạnh pháp lý, định nghĩa thụ tinh trong ống nghiệm được quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Đây là sự kế thừa quy định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP trước đây. Đồng thời, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đưa ra các định nghĩa nhằm giải thích cụ thể cho sự kết hợp để tạo phôi như quy định tại khoản 4 Điều 2, khoản 3 Điều 3. Như vậy, thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp thực hiện hỗ trợ sinh con trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y học nhằm tạo phôi từ sự kết hợp giao tử của nam và nữ. Việc tạo phôi này phải được thực hiện trong ống nghiệm, bên ngoài cơ thể. Điều này cũng có nghĩa là, thụ tinh trong ống nghiệm là phương pháp thường được thực hiện khi các chủ thể không có khả năng thụ tinh tự nhiên hoặc thụ tinh nhân tạo không phát huy hiệu quả. Ngày nay, thụ tinh trong ống nghiệm chủ yếu được dùng trong điều trị vô sinh hoặc thực hiện kỹ thuật mang thai hộ.

2. Một số vấn đề pháp lý phát sinh trong trường hợp sinh con từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và giải pháp hoàn thiện

Trong những thập niên gần đây, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã không còn là khái niệm xa lạ đối với nhiều người tại Việt Nam nói riêng và nhiều quốc gia trên thế giới nói chung. Việc áp dụng kỹ thuật này để sinh con cũng đã và đang trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng không thể có khả năng làm cha mẹ một cách tự nhiên. Tuy nhiên, với những đặc trưng của một quan hệ chỉ có thể tiến hành dựa trên cơ sở của việc ứng dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì vấn đề này cũng đang đặt ra nhiều rắc rối, phức tạp. Một số vấn đề pháp lý phát sinh chưa theo kịp những thay đổi có liên quan đến việc thực hiện kỹ thuật này trong thực tiễn. Điều này thể hiện rõ trong các vấn đề sau:

Một là, theo quy định của pháp luật hiện hành, việc thực hiện sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm sẽ phải trải qua nhưng quy trình khắt khe về mặt kỹ thuật[2]. Tuy nhiên, không có điều gì có thể đảm bảo rằng việc thực hiện các quy trình kỹ thuật đó là luôn luôn đúng. Giả thiết được đặt ra là, nếu trong quá trình cặp vợ chồng vô sinh thực hiện kỹ thuật này nhưng sai sót là các kỹ thuật viên y tế đã cấy nhầm phôi. Sau đó, khi đứa trẻ được sinh ra thì họ xét nghiệm đứa trẻ này không có cùng huyết thống với chính họ. Vậy, việc giải quyết hậu quả pháp lý trong trường hợp trên được đặt ra như thế nào?

Vấn đề này cũng sẽ là trở ngại đối với trường hợp các bên thực hiện mang thai hộ. Pháp luật Việt Nam hiện hành cho phép các cặp vợ chồng không thể mang thai và sinh con ngay cả khi thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Song, với giả thiết về việc “cấy nhầm phôi” nói trên thì rõ ràng, giữa các bên không phát sinh những tranh chấp trong việc thực hiện mang thai hộ, đứa trẻ sau khi sinh ra vẫn được chuyển giao và thực hiện các thủ tục hộ tịch nên không thể có sự can thiệp từ các cơ quan có thẩm quyền về việc xác định thỏa thuận mang thai hộ trên là vô hiệu do vi phạm quy định về điều kiện thực hiện. Điều này cũng dẫn đến hệ quả là không có bất kỳ chế tài nào được áp dụng để xử lý các trường hợp mang thai hộ vi phạm quy định của pháp luật đối với các bên cũng như đối với cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật này. Do đó, vấn đề này cần được cân nhắc và hướng dẫn kịp thời nhằm tránh các trường hợp vi phạm xảy ra cũng như tạo cơ chế pháp lý và sự ràng buộc trách nhiệm đối với các cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.

Theo quan điểm tác giả, nếu việc vi phạm về các điều kiện thực hiện (như trường hợp cấy nhầm phôi nêu trên), nhưng đứa trẻ đó được sinh ra thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ vẫn được xác định là cha mẹ của trẻ và có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ để đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần đặt ra các biện pháp chế tài xử lý đủ sức răn đe đối với các cơ sở y tế để hạn chế tình trạng thẩm định hồ sơ mang thai hộ tắc trách dẫn đến sự vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, tước giấy phép thực hiện nếu vi phạm quá số lần quy định; tước chứng chỉ hành nghề đối với cán bộ y tế thẩm định thiếu trách nhiệm dẫn đến sai phạm, đồng thời áp dụng các hình phạt khác như phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ... Đối với chủ thể thực hiện mang thai hộ cố tình lợi dụng quy định của pháp luật về mang thai hộ vì mục đích thương mại để vi phạm về điều kiện thực hiện có thể bị xử lý hành chính, dân sự hoặc hình sự tùy thuộc mức độ vi phạm.

Hai là, việc giải quyết quan hệ cha, mẹ, con trong một số trường hợp “hi hữu” nhưng hoàn toàn có khả năng xảy ra trên thực tế là chưa có những dự liệu phù hợp, dẫn đến không có cơ sở để giải quyết tranh chấp cho các chủ thể (nếu có) phát sinh. Vấn đề này được minh chứng cụ thể trong tình huống sau: Chị C thỏa thuận đồng ý mang thai hộ vì mục đích thương mại với giá 300 triệu đồng cho vợ chồng anh A và chị B. Sau khi cấy phôi được hình thành từ cặp vợ chồng A và B thì chị C được thông báo là đã mang thai đôi. Quá trình mang thai thuận lợi và chị C đã sinh được hai bé là cháu M và cháu N. Sau khi sinh, hai cháu được giao cho bên nhờ mang thai hộ là anh A và chị B. Tuy nhiên, sau đó, qua một xét nghiệm thì các bên phát hiện ra rằng, một trong hai đứa trẻ là cháu M không phải là con của A và B mà là con đẻ của chị C và chồng (do trong quá trình cấy phôi thai, chị C cũng có quá trình rụng trứng và thụ thai). Hiện tượng y học hiếm gặp này được gọi là “siêu thai”, trong đó, một người phụ nữ tiếp tục rụng trứng sau khi mang thai. Hai em bé có gen di truyền khác nhau đã ở trong cùng một bụng mẹ. Chị C yêu cầu hai vợ chồng anh A và chị B trao trả con nhưng không được chấp nhận. Hai vợ chồng này yêu cầu chị C phải trả một khoản tiền lớn để bồi thường nếu muốn nhận con. Do không đủ tiền bồi thường, nên cháu M đã bị vợ chồng A và B bỏ rơi.

Như vậy, rõ ràng thỏa thuận giữa các bên là mang thai hộ vì mục đích thương mại, là hành vi vi phạm pháp luật. Như vậy, đương nhiên, nếu chị C khởi kiện yêu cầu được nhận lại con hoặc vợ chồng A và B khởi kiện yêu cầu trả cháu M nhưng chị C không nhận thì thỏa thuận này bị tuyên bố là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Tuy nhiên, trường hợp trên sẽ phát sinh hai vấn đề cần giải quyết:

- Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con đối với cả hai đứa trẻ trong trường hợp trên được giải quyết thế nào? Căn cứ vào quy định tại khoản 6 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trường hợp này vẫn có thể được xác định là “tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân và ngay cả khi không rơi vào điều luật này thì Tòa án nhân dân cũng không có quyền từ chối giải quyết vì lý do không có điều luật áp dụng[3]. Tuy nhiên, cách thức giải quyết tranh chấp nói trên hiện chưa có những hướng dẫn cụ thể nên gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật. Trong những trường hợp trên, nếu bên nhờ mang thai hộ có yêu cầu Tòa án giải quyết thì chắc chắn hợp đồng mang thai hộ được xác định là vô hiệu. Tuy nhiên, những phụ nữ mang thai hộ vì mục đích thương mại mang thai vì hi vọng kiếm tiền, do đó, khi hợp đồng bị tuyên bố là vô hiệu, họ sẽ phải tự sinh con và nuôi con. Đứa trẻ được sinh ra được xác định là con của bên mang thai hộ và chồng của người đó nếu có theo nguyên tắc suy đoán pháp lý được quy định tại Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 dù cho đứa trẻ không có huyết thống với họ. Trong khi đó, bên nhờ mang thai hộ không thể nhận con có cùng “máu mủ” với chính mình. Điều này rõ ràng có ảnh hưởng sâu sắc đến quyền lợi của trẻ em, làm mất ổn định trật tự xã hội. Vì vậy, dưới góc độ bảo vệ quyền trẻ em, tác giả cho rằng, việc thực hiện theo nguyên tắc trên là không hợp lý. Bởi vì, đứa trẻ không có cùng huyết thống với người mang thai hộ nhưng họ vẫn được xác định là cha, mẹ của trẻ thì trẻ em sẽ phải đối diện với nguy cơ bị bỏ rơi, bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp bởi lẽ rõ ràng người mang thai hộ không mong muốn được nuôi trẻ. Vì vậy, trẻ em sẽ lại là nạn nhân của một thỏa thuận trái pháp luật do người lớn thực hiện. Quan điểm của tác giả cho rằng, cho dù rơi vào hoàn cảnh nào thì trẻ em vẫn luôn phải là đối tượng được ưu tiên và bảo vệ tối đa. Nguyên tắc này cần phải được luật hóa: “Trong mọi trường hợp, lợi ích của trẻ em được sinh ra từ kỹ thuật này luôn được đặt lên hàng đầu và phải được xem là tối quan trọng”. Do đó, mặc dù là mang thai hộ vì mục đích thương mại nhưng nếu đứa trẻ được xác định là có quan hệ huyết thống với người nhờ mang thai hộ thì vẫn được xác định là con của cặp vợ chồng này để đảm bảo rằng trẻ nhận được tình yêu thương và chăm sóc chu đáo. Đồng thời, để xây dựng hành lang pháp lý ngăn chặn và xử lý hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại thì chính người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ phải chịu những chế tài của pháp luật vì những hành vi vi phạm của mình để đảm bảo sự răn đe và tính nghiêm minh của pháp luật. Do đó, Nhà nước cần xây dựng cơ chế kiểm soát tốt việc mang thai hộ, có chế tài nghiêm khắc với các cán bộ y tế thực hiện mang thai hộ vì mục đích thương mại và áp dụng ngay cả với người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ vì mục đích thương mại. Điều này sẽ góp phần bảo vệ tốt hơn quan hệ pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

- Giả sử như trường hợp hi hữu về việc mang “siêu thai” nói trên nhưng lại được thực hiện trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hoàn toàn hợp pháp thì được giải quyết như thế nào? Giả thuyết được đặt ra là chị C yêu cầu vợ chồng anh A và chị B trả con đẻ nhưng không được chấp nhận nên chị C khởi kiện tại Tòa án nhân dân. Rõ ràng đứa trẻ này được sinh ra từ kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nên theo nguyên tắc tại Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trẻ được xác định là con của bên nhờ mang thai hộ. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, đối với trường hợp này không thể áp dụng nguyên tắc xác định quan hệ cha, mẹ, con nói trên để giải quyết mà cần căn cứ vào việc xác định quan hệ huyết thống của trẻ với cha, mẹ để giải quyết. Về nguyên tắc, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kỹ thuật bắt buộc thực hiện thụ tich trong ống nghiệm từ giao tử của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nên trẻ sinh ra sẽ có quan hệ huyết thống với bên nhờ mang thai. Do đó, nếu đứa trẻ không phải là con do bên mang thai hộ nhờ mang thai thì đứa trẻ được sinh ra vẫn được xác định là con của người mang thai hộ. Các bên có thể chứng minh qua việc cung cấp kết quả giám định AND và theo đó, các bên phải thực hiện nghĩa vụ nhận/giao con nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên và lợi ích hợp pháp của bên mang thai hộ và của chính bản thân trẻ em.

Tóm lại, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một trong những quan hệ pháp luật chịu những tác động nhất định của các khía cạnh pháp lý, y học, khoa học kỹ thuật và đạo đức. Đây là vấn đề không còn quá mới nhưng có xu hướng phát triển nhanh trong giai đoạn gần đây, nhất là khi những tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật và y học đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Do vậy, việc dự liệu những mối quan hệ phát sinh và xử lý những hệ quả pháp lý mang tính dự báo là vô cùng quan trọng. Điều này vừa góp phần đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, đặc biệt là lợi ích của trẻ em, vừa góp phần ổn định xã hội, tránh những tranh chấp không đáng có, tạo cơ sở cho việc kiện toàn hệ thống pháp luật đáp ứng những yêu cầu đa dạng, phức tạp và nhiều biến động trong bối cảnh xã hội ngày càng hiện đại.

TS. Nguyễn Thị Lê Huyền
Trường Đại học Luật, Đại học Huế


[1] Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2019 không đưa ra cách giải thích về thụ tinh nhân tạo.

[2] Xem thêm Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-BYT ngày 30/01/2019 của Bộ Y tế quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

[3] Xem khoản 2 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: